Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

 

Phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

TS. ĐỖ NGỌC TUYÊN
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
TCCS - Xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc luôn là hai nhiệm vụ chiến lược, thống nhất biện chứng, là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Đứng trước những tác động của thời đại và trong nước, của con người và thiên nhiên..., để sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thắng lợi, một trong những vấn đề quan trọng là phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội một cách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.

1- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(1). Để thực hiện được mục tiêu đó, cần phải có phương thức quản lý xã hội phù hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời  bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Lễ cưới tập thể dành cho công nhân có hoàn cảnh khó khăn làm việc tại các khu công nghiệp ở Thành Phố Hồ Chí Minh do Trung tâm Hỗ trợ thanh niên công nhân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức _Ảnh: Tư liệu

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc, lâu dài, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tập trung xây dựng con người xã hội chủ nghĩa - nhân tố trung tâm, quyết định nhất; xây dựng một xã hội phát triển hài hòa cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh...

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bảo vệ Tổ quốc được thực hiện từ sớm, từ xa; bằng cả phương thức vũ trang và phi vũ trang; bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, trong đó sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân.

Xã hội có các yếu tố cấu thành bao gồm cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội, kiến trúc thượng tầng chính trị, đời sống văn hóa,... Xã hội cũng có thể là một lĩnh vực hoặc các lĩnh vực trong mối quan hệ với nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Do đó, xem xét sự phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đòi hỏi vừa phải phân biệt, vừa phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đặc biệt là với kinh tế.

Phát triển là một hình thức vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam tham gia và thừa nhận định nghĩa phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đó là: sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau(2).

Phát triển bền vững thể hiện ở sự vận động đi lên một cách vững chắc, hợp quy luật, văn minh, lành mạnh, là sự biến đổi trong mọi lĩnh vực, trong đó, nổi bật là kinh tế và môi trường, là quá trình phát triển bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ, có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, cân đối và hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay không thể bỏ qua yếu tố khoa học  - công nghệ và văn hóa. Khoa học - công nghệ thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm cho sự phát triển kinh tế song hành với cải thiện môi trường. Phát triển văn hóa - xã hội bền vững, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nâng cao chỉ số hạnh phúc của từng gia đình, phát triển con người toàn diện cả về trí tuệ, nhân cách và thể lực chính là tạo nền tảng cho phát triển bền vững.

Phát triển xã hội bền vững là một mặt của phát triển bền vững và là một nội dung của xây dựng chủ nghĩa xã hội, gồm cơ cấu xã hội, điều kiện sống, chất lượng sống của con người, công bằng xã hội và các quan hệ xã hội, các thiết chế và cơ chế quản lý xã hội nhằm đáp ứng bình đẳng nhu cầu ngày càng tăng của con người cả trong hiện tại và mai sau.

Phát triển xã hội bền vững được đánh giá chủ yếu thông qua hai lĩnh vực kinh tế và môi trường, tức là xã hội bền vững phụ thuộc vào những biến đổi tích cực trong kinh tế và sự bảo đảm các yếu tố tiêu chuẩn về môi trường, đồng thời lại có tác động trở lại đến sự phát triển kinh tế và môi trường. Do vậy, nâng cao nhận thức, nhất là đối với lãnh đạo các cơ quan tham mưu, cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế và môi trường là rất cần thiết. Chỉ khi hiểu rõ mối quan hệ giữa quản lý phát triển kinh tế với quản lý môi trường thì mục tiêu phát triển bền vững mới được hiện thực hóa.

2- Ở Việt Nam, phát triển xã hội bền vững không phải bây giờ mới có mà tinh thần của nó nằm ngay trong sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; ở Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhằm lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản... và được hoàn thiện, hiện thực hóa dần qua quá trình gần một thế kỷ Đảng lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, quan điểm về phát triển bền vững đã được khẳng định cụ thể lần đầu trong Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25-6-1998, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và được tái khẳng định trong các chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, trong các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, như Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) ban hành kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17-8-2004, của Thủ tướng Chính phủ; Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12-4-2012 và Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành theo Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ,... và dần dần đã trở thành xu thế tất yếu trong quá trình phát triển đất nước.

Để phát triển xã hội bền vững, cần phải tiến hành quản lý phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng, quản lý phát triển xã hội là hoạt động theo chức năng quản lý của Nhà nước, có sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình tổ chức và tác động liên tục của Nhà nước bằng tuyên truyền vận động, chính sách, luật pháp, hành chính, các nguồn lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để phát triển đất nước, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân và thực thi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống thù trong giặc ngoài, thiết lập, củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các nước và các tổ chức quốc tế. Với nghĩa đó, quản lý phát triển xã hội tương đồng với quản lý quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển xã hội là một phân nhánh (hay bộ phận, nội dung - tùy cách tiếp cận) quản lý của Nhà nước - quản lý sự phát triển để giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, phát triển cá nhân, cộng đồng và các quan hệ xã hội, phát triển xã hội bền vững, trọng tâm là tiến bộ và công bằng xã hội.

Ở Việt Nam, quản lý phát triển xã hội dù theo nghĩa nào thì đều thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể nhân dân, của quốc gia, dân tộc và được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức, quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, trong đó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quản lý phát triển xã hội được thực hiện thông qua các công cụ, phương tiện, nguồn lực hiện có; thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với nhiệm vụ của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển; tuân thủ theo mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là vấn đề tất yếu, khách quan, phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, quốc gia, dân tộc, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong những năm gần đây, bối cảnh tình hình khu vực diễn biến phức tạp, đặt ra những yêu cầu mới về phát triển xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mối quan hệ giữa phát triển xã hội bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trở thành nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở phải có nhận thức sâu sắc và có hành động thực tiễn. Phải kết hợp giữa mục tiêu phát triển xã hội với mục tiêu từng bước hiện đại hóa các trang thiết bị, vũ khí, khí tài cho lực lượng quân đội, bên cạnh đó tăng cường đối ngoại quốc phòng, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Nếu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thì phát triển xã hội bền vững là một mục tiêu, yếu tố cấu thành hướng đích đi tới của xây dựng đất nước; quản lý phát triển xã hội là một phân nhánh (bộ phận, nội dung) quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội. Trong 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ trên. Kết quả của quá trình này là sự biến đổi về lượng, biến đổi về chất ở từng bộ phận của xã hội cho đến sự nhảy vọt về chất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội thời gian qua đã bao hàm trong đó cả quá trình phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cũng đồng thời xây dựng được một xã hội phát triển bền vững, lâu dài qua nhiều thế hệ, giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước dù trên thực tế, có thể tại một thời điểm nhất định có sự chững lại.

Phát triển xã hội bền vững suy cho cùng chính là nội dung cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, là công cuộc xây dựng những “tế bào” vững mạnh hợp thành “cơ thể” xã hội chủ nghĩa, là làm cho kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội xã hội chủ nghĩa ra đời, phát triển, đứng vững trong cuộc cạnh tranh, tự khẳng định và có tiếng nói quyết định... Trong tiến trình ấy, công cuộc bảo vệ Tổ quốc là một hoạt động song hành, nhưng luôn đòi hỏi phải có chiến lược và kế hoạch riêng, phải đầu tư công sức chỉ đạo, đầu tư tài chính và lực lượng thích đáng.

Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, Đảng ta đã xác định “Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh”(3). Rõ ràng chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo đã được Đảng ta xác định rõ. Tuy nhiên, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ “nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện”(4). Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhận thức rõ, đặc biệt trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ các định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam không thay thế các định hướng, chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hiện có, mà chỉ là căn cứ để cụ thể hóa các định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường quốc gia từng thời kỳ cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước, là cơ sở vững chắc tạo ra động lực tinh thần, vật chất, góp phần bảo vệ Tổ quốc.

Để bảo vệ Tổ quốc phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng được xác định bao gồm cả bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ công cuộc đổi mới; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội(5).

Việc hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ phát triển xã hội bền vững và quản lý tốt xã hội ở từng thời kỳ sẽ bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển toàn diện con người Việt Nam; làm giảm tình trạng đói nghèo và thu hẹp dần khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp và nhóm người trong xã hội, giảm các tệ nạn xã hội...; nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong xã hội; tạo điều kiện sống, chất lượng sống của con người ngày càng tốt hơn; các quan hệ xã hội, các thiết chế và cơ chế quản lý xã hội ngày càng hoàn thiện hơn; duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc. Không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần... cho cá nhân và cộng đồng, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước...

Xã hội phát triển bền vững sẽ củng cố và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc để xây dựng nền quốc phòng tiên tiến, từng bước hiện đại mà còn tạo dựng động cơ, ý chí và quyết tâm cho mọi tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh của nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc - tạo nguồn sức mạnh, tạo động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việt Nam tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 đợt đầu tiên tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cơ sở 2 (Hà Nội), sáng ngày 8-3-2021_Ảnh: TTXVN

3- Để phát triển xã hội bền vững, quản lý phát triển xã hội phải đóng vai trò gắn kết và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cụ thể cần:

Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện trước hết trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng, ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển; thứ hai là trong quá trình tổ chức, lãnh đạo, quản lý, điều khiển quá trình vận động, phát triển của đất nước. Quá trình này phải bảo đảm nguyên tắc tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. 

Hai là, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tố chất chính trị - tinh thần ưu việt của con người Việt Nam và trạng thái chính trị - tinh thần lành mạnh của toàn xã hội, tạo cơ sở nền tảng để bồi dưỡng, nâng cao lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, các giá trị này càng cần được phát huy thành hạt nhân, thành những giá trị cơ bản nhất, cao quý nhất, mang tính chủ đạo và xuyên suốt.

Ba là, tạo sự thống nhất cao cả về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về khát vọng, ý chí, nỗ lực quyết tâm xây dựng đất nước phát triển bền vững, giàu mạnh, phồn vinh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, nhất là hệ thống luật pháp và chính sách xã hội, an sinh xã hội để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động xã hội.

Năm là, sử dụng, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ Nhà nước, khai thác tối đa các nguồn lực xã hội trong quá trình quản lý xã hội phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, luôn đề cao và chú trọng thực hiện phát triển xã hội bền vững gắn với phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường vì mục tiêu bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả lao động, tạo cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho người dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Bảy là, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, có cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành hợp lý, có hiệu lực, hiệu quả cao trong lãnh đạo, quản lý, điều khiển các quá trình phát triển xã hội và giải quyết các quan hệ xã hội. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng và tăng cường vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Phát huy bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân để tổ chức, quản lý, điều khiển các quá trình xã hội phát triển bền vững. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở.

Tám là, kịp thời phát hiện, giải quyết thỏa đáng, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là sự phân hóa giàu - nghèo, sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành, nghề... Kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới./.

--------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 30
(2) Xem: Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005

(3), (4), (5) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/821643/phat-trien-xa-hoi-ben-vung-va-quan-ly-phat-trien-xa-hoi-voi-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc.aspx

Vai trò của nguồn lực văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội

 

Vai trò của nguồn lực văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội

GS, TS. NGUYỄN TRỌNG CHUẨN
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
TCCS - Trong lịch sử nhân loại cũng như trong lịch sử dân tộc ta, văn hóa có sức mạnh nội sinh to lớn, đóng vai trò động lực thúc đẩy con người sáng tạo và phát triển. Do đó, việc khai thông nguồn lực văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

1- Phạm trù văn hóa bao gồm nhiều mặt, có nội dung hết sức phong phú và có thể được hiểu theo các nghĩa rộng hoặc hẹp khác nhau.

Theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người làm ra; bởi vậy, văn hóa gồm hai mặt cơ bản là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Cả hai mặt này đều được con người sáng tạo ra ở từng giai đoạn phát triển cụ thể nhất định và cả trong suốt quá trình phát triển rất lâu dài của lịch sử nhân loại.

Theo nghĩa hẹp, văn hóa được coi là mặt đời sống tinh thần của xã hội; là trình độ phát triển mà con người và xã hội đã đạt được trên các mặt học vấn, khoa học, văn học, nghệ thuật, triết học, đạo đức, cách giao tiếp, cách ứng xử trong xã hội giữa con người với con người, giữa con người và xã hội loài người với thiên nhiên,... cùng với các thiết chế tương ứng.

Lễ hội rước voi xã Đào xá, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ_Ảnh: Tư liệu

Có một điều chắc chắn rằng, văn hóa không phải là thứ có sẵn từ khi loài người mới hình thành, hay có trong bản thân mỗi con người ngay khi được sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1). Xuất phát từ đây, ngay từ khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nêu ra năm điểm lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc bao gồm: “1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4) Xây dựng chính trị dân quyền; 5) Xây dựng kinh tế”(2).

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Tiếp đó, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người cũng đã chỉ rất rõ mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị khi viết: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3).

Đặc biệt, tiếp thu và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, sau hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, ngày 16-7-1998, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết này đã coi các lĩnh vực văn hóa khác nhau “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội(4). Có thể nói, đây là một trong những nghị quyết đầy đủ nhất, toàn diện nhất cho đến thời điểm đó về văn hóa. Nghị quyết khẳng định, “chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”(5). Tiếp tục quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng khẳng định rằng, phải “xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(6). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn  hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(7).

 Những khẳng định trên đây là hoàn toàn đúng đắn và rất cần thiết, nhấn mạnh được vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, vai trò của văn hóa trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Đặc biệt, những khẳng định trên đây của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và các kỳ đại hội của Đảng còn có giá trị thực tiễn rất cao khi coi văn hóa là động lực, là sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và sự phát triển xã hội. Đây là những luận điểm hết sức mới mẻ, phù hợp với nhận thức và thực tiễn của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng nhiều mặt hiện nay. Dĩ nhiên, cần lưu ý rằng, không bao giờ được tuyệt đối hóa vai trò của văn hóa, cũng như không bao giờ được coi văn hóa là động lực duy nhất trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Song, nếu như coi nhẹ động lực này, hoặc bỏ qua nó thì lại là sai lầm rất khó chấp nhận, nhất là trong bối cảnh tất cả các nước trên thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, nền kinh tế số với tốc độ rất nhanh và hiệu quả nhờ các thành tựu của trí tuệ con người.

Hơn lúc nào hết, ở thế kỷ XXI, chúng ta cần có sự nhận thức mới hơn về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự phát triển bền vững của đất nước, chứ không nên dừng lại ở quan niệm của những năm 70  - 90 thế kỷ XX, thời điểm mà nhiều người chỉ coi phát triển bền vững gồm có ba trụ cột chủ yếu là phát triển bền vững về kinh tế, phát triển bền vững về chính trị - xã hội và phát triển bền vững về môi trường.

Trong một số bài viết, chúng tôi đã luận chứng và nhấn mạnh vai trò quan trọng của sự phát triển bền vững về văn hóa trong sự phát triển bền vững của xã hội trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. Bởi lịch sử nhân loại cho thấy, mọi sự phát triển, xét đến cùng, nếu muốn đi thật xa và có hiệu quả lâu dài, muốn ngày càng trở nên bền vững hơn thì đều phải nằm trong quỹ đạo của văn hóa, phải có văn hóa lành mạnh và tiến bộ dẫn đường. Đặc biệt, trong khi chúng ta vẫn “chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hóa song song với chiến lược phát triển kinh tế... Trong hoạt động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố văn hóa, các yêu cầu phát triển văn hóa tương ứng”(8) như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng đã chỉ ra, thì việc huy động các nguồn lực văn hóa phong phú, đa dạng, cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần, thành động lực để phát triển của mỗi địa phương cũng như của cả đất nước càng có vai trò quan trọng.

Văn hóa được trao truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đồng thời không ngừng được các thế hệ nối tiếp nhau hun đúc và làm phong phú thêm_Ảnh: Tư liệu

2- Dù được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp thì văn hóa cũng vẫn do con người sáng tạo ra, được lưu lại và được trao truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đồng thời không ngừng được các thế hệ nối tiếp nhau hun đúc và làm phong phú thêm. Văn hóa, như trên đã nói, bao hàm hai mặt cơ bản nhất là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hoặc là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Dù tồn tại dưới hình thức cụ thể nào thì văn hóa cũng vẫn là những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò “động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã khẳng định. Nếu văn hóa được thể hiện ra dưới dạng các sản phẩm vật thể thì cách thức khai thác, cách thức sử dụng vai trò nguồn lực này sẽ khác với cách thức khai thác và sử dụng nguồn lực văn hóa phi vật thể.

Có thể nói, nguồn lực các sản phẩm văn hóa vật thể nhân tạo và tự nhiên nhưng đã có bàn tay gia cố với các mức độ khác nhau của con người ở nước ta hết sức phong phú và đa dạng. Các kỳ quan thiên nhiên và nhân tạo đặc biệt có giá trị được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới cũng như nhiều di tích văn hóa nổi tiếng khác khắp cả nước với “vẻ đẹp bất tận”, như Sa Pa (tỉnh Lào Cai), Vịnh Hạ Long, đảo Cô Tô, di tích Yên Tử (tỉnh Quảng Ninh), Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Phố cổ (Hà Nội), Mộc Châu (tỉnh Sơn La), Mai Châu (tỉnh Hòa Bình), Bái Đính, Tràng An (tỉnh Ninh Bình), động Phong Nha  - Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình), Kinh thành Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), Mỹ Sơn, Hội An (tỉnh Quảng Nam), Địa đạo Củ Chi  - Bến Dược (Thành phố Hồ Chí Minh),... là những điểm du lịch thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế, đang mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách các địa phương và cả nước. Nếu tổ chức kết nối tốt các khu du lịch này, kết hợp giới thiệu các giá trị lịch sử dân tộc thì hiệu quả nhiều mặt sẽ tăng lên đáng kể so với việc tổ chức đơn lẻ hoặc mạnh ai nấy làm.

Một vấn đề cần được đề cập sâu hơn là nguồn lực văn hóa phi vật thể, hay còn gọi là các nguồn lực văn hóa tinh thần đối với sự phát triển của đất nước. Có thể hiểu, mặt đời sống tinh thần của xã hội là trình độ phát triển mà con người và xã hội đã đạt được trên các khía cạnh quan trọng, như trình độ học vấn của người dân, trình độ phát triển của khoa học - công nghệ, của văn học và nghệ thuật; văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo và quản lý xã hội; văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử trong xã hội giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên, bao trùm hơn cả là trình độ văn hóa triết học, bởi như C. Mác nói, giữa tư duy của con người và tầm nhìn triết học với văn hóa có sự gắn bó hữu cơ, và rằng triết học phải trở thành linh hồn sống của văn hóa...”(9).

Trong thế giới đương đại, những mặt này của văn hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng, góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển của xã hội mà trước đây chưa từng có. Các nguồn lực văn hóa tinh thần, như các di sản nghệ thuật, các tinh hoa văn hóa dân gian, âm nhạc dân tộc,... nếu được khai thác tốt vừa để phục vụ du lịch, vừa để giới thiệu quảng bá các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ra thế giới nhằm thu hút du khách đến nước ta cũng sẽ tạo được cú hích cho du lịch phát triển, góp phần không nhỏ cho ngành công nghiệp văn hóa.

Du khách tham quan Kinh thành Huế bằng khinh khí cầu_Ảnh: Tư liệu

Đành rằng, việc khai thác và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa của hệ giá trị quốc gia trong công cuộc phát triển đất nước không thể thiếu cũng không tách rời ý chí và khát vọng vươn lên của mỗi cá nhân dù họ ở bất cứ vị trí nào trong xã hội; song, đất nước cũng sẽ không thể phát triển nếu sử dụng không hiệu quả hoặc không có các chính sách phù hợp để nuôi dưỡng, tận dụng có hiệu quả cao các nguồn lực khoa học, công nghệ và các phát minh, sáng chế trong những lĩnh vực này. Đây là điều rất dễ nhận thấy mỗi khi chúng ta tiến hành đánh giá lại, hay tổng kết quá trình phát triển của từng giai đoạn đã qua. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở đây là, cần nâng cao, nâng tầm và sử dụng hiệu quả trình độ văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý xã hội; văn hóa kinh doanh; văn hóa giao tiếp; văn hóa ứng xử trong xã hội giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên để thúc đẩy sự phát triển của cả đất nước.

Trước hết, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, mọi mặt của đời sống xã hội và thế giới đang có những biến động chính trị - xã hội và địa  - chính trị rất khó lường như hiện nay thì văn hóa chính trị giữ vai trò định hướng. Trong điều kiện như vậy, đất nước muốn phát triển nhanh và bền vững thì nhất định văn hóa phải thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, văn hóa phải thấm sâu vào tư duy của những con người đang nắm giữ vai trò quản trị, quản lý, điều hành đất nước một cách sáng tạo và hiệu quả trong các lĩnh vực, như khoa học, văn học và nghệ thuật, nhất là lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính trị; nghĩa là, chính trị phải dựa trên nền tảng văn hóa.

Trong thời đại hiện nay, chính trị dựa trên nền tảng văn hóa sẽ là một sự bảo đảm, một động lực thúc đẩy việc xây dựng xã hội ổn định, dân chủ, tự do, công bằng, nhân văn và phát triển bền vững. Xét trong tổng thể, văn hóa chính trị, văn hóa công vụ, văn hóa đạo đức và nền tảng văn hóa nói chung bao giờ cũng là động lực tạo nên sức mạnh, khẳng định sự chính danh của một đảng chính trị đang lãnh đạo và cầm quyền, của một chế độ của dân, do dân, vì dân và bảo đảm cho sự vững bền của chế độ đó. Giá trị của nguồn lực văn hóa chính trị này khó có thể đo đếm theo cách thức thông thường mà chỉ có thể đánh giá thông qua những thành quả cụ thể được chế độ chính trị mang lại cho mỗi người dân, cho toàn thể xã hội và bằng sự ổn định, bền vững của chính chế độ, bằng sự hài lòng và niềm tin của người dân.

Trái lại, khi văn hóa chính trị và văn hóa đạo đức suy đốn, khi mà có những cán bộ các cấp và công chức trong bộ máy công quyền tiến hành công khai, lộ liễu, hoặc che giấu quá khéo léo, kín đáo việc mua bán chức vụ, vị trí lãnh đạo hoặc nơi công tác; nhận hối lộ, tham nhũng tiền bạc, tham nhũng quyền lực, bảo kê cho các hoạt động phi pháp, thoái hóa trong lối sống, mất dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, trù dập những người trung thực,... thì tình trạng người dân mất niềm tin trầm trọng vào chính quyền, vào chế độ chính trị sẽ xảy ra; lúc đó, chế độ chính trị, xã hội sẽ khó có lý do chính đáng để tồn tại, chứ chưa nói đến sự ổn định hay sự phát triển bền vững của quốc gia. Lịch sử xã hội loài người đã từng cho thấy, văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị có thể góp phần củng cố hoặc thúc đẩy sự phát triển của một chế độ xã hội, nhưng cũng có thể kìm hãm, thậm chí là nguyên nhân dẫn đến chỗ xóa sổ, hủy hoại cả một vương triều, một đất nước(10). Vì thế, nền tảng văn hóa của các cán bộ chính trị, của mọi công chức, viên chức ở tất cả các cấp quản lý nhà nước thuộc mọi lĩnh vực xã hội là điều kiện không thể thiếu để họ có thể đảm đương những trọng trách được giao.

Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển với tốc độ nhanh, lành mạnh và vững chắc nền kinh tế này trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thì chúng ta không chỉ cần có thị trường nội địa, mà còn rất cần cả thị trường quốc tế rộng lớn. Điều đó có nghĩa là, chúng ta không những phải tạo được niềm tin của người tiêu dùng trong nước, mà còn phải tạo được và quan trọng hơn là phải giữ được lâu dài niềm tin của người tiêu dùng ở các nước trên thế giới mà chúng ta có quan hệ thương mại và quan hệ kinh tế nói chung. Do vậy, ngoài năng lực sản xuất, trình độ tay nghề và nhiều phẩm chất quan trọng khác, để chiếm được niềm tin của người tiêu dùng thế giới thì người sản xuất, người kinh doanh phải là người có văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh. Việc ăn cắp bản quyền, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng; thực hiện kinh doanh kiểu chụp giật, không tự mình thường xuyên đổi mới, không chịu cải tiến, sáng tạo để vượt lên thì nhất định sẽ nắm chắc phần thất bại trên thương trường và do vậy, việc phá sản là không tránh khỏi.

Khát vọng làm giàu của tất cả những ai tham gia kinh tế thị trường là rất chính đáng, song để làm giàu một cách bền vững thì tuyệt đối không được làm trái đạo lý, không được vi phạm pháp luật, cũng không được trái với các giá trị văn hóa chung của loài người. Người tham gia kinh tế thị trường muốn làm giàu chính đáng thì không phải chỉ có trách nhiệm với cộng đồng xã hội và với đất nước, mà còn phải có trách nhiệm với chính bản thân mình để không bị tụt lại phía sau, để không bị quy luật nghiệt ngã của kinh tế thị trường đào thải. Muốn làm giàu chính đáng và bền vững thì người kinh doanh trong thời đại kinh tế thị trường toàn cầu hóa hiện nay không chỉ phải có trách nhiệm về phương diện đạo đức, mà còn phải có trách nhiệm xã hội, nghĩa là phải làm giàu có văn hóa. Bởi vậy, nội dung quan trọng trong văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân chính là trách nhiệm xã hội của doanh nhân và doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh đòi hỏi phải kinh doanh có trách nhiệm. Trách nhiệm này vừa phải thấm vào tư duy của người kinh doanh, vừa phải thể hiện trong các sản phẩm mà họ đưa ra thị trường, nhất là những sản phẩm liên quan đến sức khỏe của con người, đặc biệt là đến sức khỏe của các thế hệ trẻ; đồng thời, không tổn hại đến môi trường, cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội. Ở đây, cái lợi phải hài hòa với cái chân; nếu chỉ quan tâm đến cái lợi thì có thể gây ra những tai họa khôn lường cho cả con người và môi trường sống. Văn hóa đạo đức và trách nhiệm xã hội của các doanh nhân là biểu hiện tập trung và cao nhất của văn hóa kinh doanh. Bởi vậy, có thể nói, văn hóa đạo đức có thể sẽ nâng họ lên thang bậc cao nhất, nhưng việc thiếu văn hóa đạo đức cũng có thể đẩy họ xuống vực sâu, đến phá sản hoặc vào cảnh tù tội một khi luật pháp phát hiện ra những việc làm sai trái, thiếu văn hóa của họ.

Như vậy, vai trò động lực của văn hóa kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chính là chìa khóa mở ra cơ hội giành phần thắng trong cạnh tranh công bằng, lành mạnh, qua đó thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển.

Bên cạnh đó, để đất nước phát triển nhanh và bền vững thì rất cần ứng xử có văn hóa với thiên nhiên và với môi trường tự nhiên, đồng thời cũng phải tạo được môi trường xã hội lành mạnh; phải coi văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trước hết, về mặt này, cần thiết phải ứng xử có văn hóa với thiên nhiên và môi trường tự nhiên. Chúng ta đều hiểu rằng, con người và xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên, gắn bó với tự nhiên.
C. Mác đã từng viết rằng, “con người... sống bằng giới tự nhiên vô cơ... Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại... con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(11). Còn Ph. Ăng-ghen thì khẳng định rằng, “bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên”. Do vậy, Ph. Ăng-ghen nghiêm khắc cảnh báo, con người cần phải ứng xử có văn hóa đối với giới tự nhiên và rằng, “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên”(12). Tương tự như Ph. Ăng-ghen, C. Mác cũng đã từng rút ra kết luận mang tính cảnh báo rằng, “nếu canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức... thì sẽ để lại sau nó đất hoang”(13).

Trong lịch sử dân tộc, ông cha ta đã rất khéo ứng xử hài hòa với thiên nhiên và luôn đề cao triết lý thiên nhân hợp nhất. Đất nước ta, dù đã trải qua bao nhiêu biến động do các cuộc chiến tranh tàn khốc gây ra, nhưng về cơ bản, chúng ta vẫn giữ được môi trường sống trong lành. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển công nghiệp trong thời gian vừa qua trên cả nước, đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề nan giải về cách thức ứng xử với môi trường tự nhiên. Do ứng xử thiếu khoa học nên tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí,... ở nhiều vùng của nước ta đang ở mức báo động cao. Dù chưa tính toán chính xác được tất cả thiệt hại nhưng cái giá phải trả cho tình trạng môi trường bị ô nhiễm, do ứng xử thiếu văn hóa với thiên nhiên chắc chắn không phải là nhỏ. Đây chính là hậu quả của sự thiếu hụt kiến thức về văn hóa môi trường, văn hóa sinh thái. Văn hóa chưa thấm vào tư duy của những người làm chính sách, đặt kế hoạch, làm quy hoạch và chưa được các cơ quan tham mưu quan tâm đúng mức. Ở đây, cũng có phần trách nhiệm không nhỏ của các cơ quan thực thi pháp luật. Nói cách khác, việc thiếu tư duy hệ thống, thiếu sự đồng bộ trong hoạch định chính sách, trong quy hoạch phát triển, trong kiểm tra vẫn đang là vấn đề nhức nhối lớn của đất nước.

Du khách tham quan lễ hội đua voi ở Đắk Lắk_Ảnh: Tư liệu

Trên thế giới, suốt mấy thập niên vừa qua đã có quá nhiều cảnh báo khẩn cấp về những tác động không mong muốn của tình trạng ô nhiễm và phá hoại môi trường tự nhiên. Chẳng hạn, theo Tổ chức bảo tồn quốc tế, thế giới trong những năm gần đây “cứ hai mươi phút, ngoài một loài sinh vật bị tuyệt chủng thì còn 485 héc-ta rừng bị cháy, bị phá vì mục đích kinh tế”(14).

Ở nước ta, nạn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, nạn phá và đốt rừng để lấy đất canh tác, nạn khai thác trộm gỗ quý ở các cánh rừng nguyên sinh gây nên tình trạng lụt lội, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất đá, đang hủy hoại nơi sinh sống của các loài sinh vật và đe dọa cuộc sống của cả con người. Nạn hạn hán triền miên ở nhiều tỉnh cũng là hậu quả của việc không còn rừng nên không thể giữ được lượng nước mưa. Tình trạng ô nhiễm môi trường đang làm gia tăng và phát tán nhanh chóng các loại bệnh dịch quái ác, thậm chí dẫn tới những đại dịch đe dọa nghiêm trọng sự sống của loài người.

Con người gắn chặt cả với môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội từ khi xuất hiện cho đến nay. Sự phát triển của con người cũng chịu sự ràng buộc và sự quy định nhất định của môi trường, mặc dù bản thân con người có khả năng cải biến cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội. Bảo vệ tốt môi trường tự nhiên chính là bảo vệ cơ sở tồn tại của chính con người. Tuy nhiên, con người không thể phát triển các phẩm chất tốt đẹp của mình nếu không có môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh. Do vậy, xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh là điều kiện không thể thiếu để có thể phát triển và hoàn thiện con người với tư cách lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Một môi trường xã hội tốt, trong sạch, lành mạnh mang các giá trị văn hóa phải là môi trường tạo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển các tài năng, cho sự sáng tạo. Trong bất cứ xã hội nào, số người có tài năng thật sự tuy không phải là hiếm, thậm chí cũng không phải là ít, nhưng để cho các tài năng phát triển, và nhất là để có được những thiên tài, thì xã hội “phải chăm lo đất trồng để các thiên tài từ đất ấy lớn lên tươi tốt. Thiên tài chỉ có thể tự do hít thở trong một bầu không khí của tự do”(15). Cái cản trở sự phát triển của con người là do con người bị kìm nén bởi tình trạng các luật lệ bảo thủ, quá hà khắc, phản nhân văn, tình trạng vô luật pháp, nhất là tình trạng mất dân chủ và không có tự do thật sự. Con người không thể nào bộc lộ được tài năng, không thể nào phát triển được trí tuệ của mình ở mức cao nhất nếu như phải sống trong bầu không khí xã hội ngột ngạt, mất dân chủ, không có tự do. Tuy nhiên, nếu đó là thứ tự do vô luật pháp, tự do vô bờ bến, bất chấp kỷ cương, phép nước thì lại dẫn xã hội đến chỗ rối loạn, không ổn định, cản trở sự phát triển. Nói cách khác, môi trường tự do, dân chủ trong khuôn khổ luật pháp, phù hợp với điều kiện lịch sử  - xã hội mới là động lực thật sự của sự phát triển. Tạo được sự hài hòa giữa luật pháp, kỷ cương và sự tự do, dân chủ trong xã hội cho mọi người chính là tạo ra môi trường xã hội phù hợp nhằm khuyến khích sự sáng tạo, sự ra đời các sáng kiến và các phát minh, sáng chế khoa học; qua đó, thúc đẩy sản xuất và các mặt của xã hội phát triển. Sức mạnh và động lực của văn hóa thể hiện rõ nhất chính là ở điểm này.

Như vậy, có thể khẳng định một lần nữa, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng với quá trình phát triển. Một khi văn hóa trì trệ thì không có bất cứ sự phát triển kinh tế - xã hội nào. Vì thế, khai thông nguồn lực văn hóa, phát huy các giá trị văn hóa là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh mới hiện nay, góp phần thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.

----------------------------

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 246
(4), (5) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 126 - Tác giả in nghiêng
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 115 – 116
(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr. 52, 53
(9) C. Mác và Ph.Ăng - ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 157 - Tác giả in nghiêng để nhấn mạnh
(10) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn: Nạn tham nhũng và nguy cơ của nó, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12-2013, tr. 53 – 60
(11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 42, tr. 134, 135
(12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 635
(13) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. 32, tr. 80
(14) Dẫn theo: Thomas L.Friedman: Nóng, phẳng, chật, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2009, tr. 200
(15) J.S. Mill: Bàn về tự do, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2005, tr. 148

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/821721/vai-tro-cua-nguon-luc-van-hoa-voi-qua-trinh-phat-trien-kinh-te---xa-hoi.aspx

Thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và chế độ tập trung dân chủ của ban lãnh đạo

 

Thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và chế độ tập trung dân chủ của ban lãnh đạo

NGUYỄN THÁI SƠN
TCCS - Người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương là người lãnh đạo, quản lý, chịu trách nhiệm cao nhất của tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương đó. Thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với nhau. Không thể có quyền mà không chịu trách nhiệm, cũng không thể đòi hỏi trách nhiệm mà không giao quyền tương ứng. Cần nghiên cứu xác định rõ vai trò và trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, từ đó có cơ sở xem xét, xử lý trách nhiệm khi có khuyết điểm hoặc sai phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng và đoàn công tác kiểm tra công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại khu vực Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cơ sở 2 ở xã Kim Chung, huyện Đông Anh_Ảnh: TTXVN

Người đứng đầu được giao cho sử dụng một số quyền lực để thi hành chức trách, nhiệm vụ được giao. Đó là quyền lực của tập thể trao cho họ và họ là người đại diện cho quyền lực của tập thể để thực thi công việc sao cho có hiệu quả cao nhất, quyền lực đó không phải là của cá nhân họ. Chất lượng công tác của người đứng đầu thể hiện chất lượng lãnh đạo cụ thể của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở đơn vị mà người đứng đầu đại diện. Nó bộc lộ toàn bộ khả năng, phẩm chất của người cán bộ, đồng thời cũng thể hiện chất lượng lãnh đạo cụ thể của tổ chức đảng ở lĩnh vực mà cá nhân người đứng đầu được trao quyền đại diện. Bác Hồ từng chỉ rõ, cán bộ là gốc của mọi công việc. Người đứng đầu lại càng là "gốc" quyết định sự thành công của đơn vị, địa phương, đoàn thể cụ thể, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý.

Trong mọi trường hợp, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm lớn hơn cán bộ, nhân viên thuộc quyền, không những chỉ là liên đới trách nhiệm mà đây còn là trách nhiệm trong chỉ đạo, quản lý, điều hành, kiểm tra, đôn đốc. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có trọng trách lớn trước mọi thành công hay thất bại trong mọi hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn được giao; tự mình phải chịu trách nhiệm chính trong việc ra các quyết định, chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Việc tự mình biết tạo ra khả năng quán xuyến, khả năng tổng hợp, khái quát đòi hỏi người đứng đầu có năng lực nghe, nhìn, phân tích mọi hiện tượng, sự việc trong cơ quan, đơn vị. Nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan và chính xác những cán bộ, nhân viên thuộc quyền có vai trò rất quan trọng đối với người đứng đầu trong sử dụng, bố trí, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhân viên phù hợp. Nếu để xảy ra các sai phạm thì người đứng đầu trước hết phải chịu kỷ luật đảng, sau đó là trách nhiệm trước pháp luật, chính quyền và nhân dân.

Trách nhiệm của người đứng đầu thể hiện ở những điểm chính sau đây: Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thể hiện ở tính tiền phong gương mẫu, liêm chính, nói đi đôi với làm; thể hiện ở tính dân chủ, tinh thần tập thể trong công tác và văn hóa ứng xử các mối quan hệ của người lãnh đạo; thể hiện ở trình độ, năng lực, phẩm chất, phong cách của người lãnh đạo, có quan điểm, phương pháp làm việc khách quan, toàn diện và cụ thể…

Người đứng đầu có vị trí, trách nhiệm cá nhân và vai trò như đầu tàu, quyết định mọi thành công hay thất bại trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Người đứng đầu phải xác định cho thật rõ cơ chế trách nhiệm và chỗ đứng của mình trong tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và cơ quan, đơn vị. Phải phân biệt thật rạch ròi quyền và trách nhiệm của mình đến đâu; mối quan hệ giữa mình và tập thể ban lãnh đạo như thế nào để tránh trường hợp thành tích thì nhận về mình, còn thiếu sót, khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể. Sự nhập nhằng trong việc xác định mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách sẽ đẩy người đứng đầu rơi vào một trong hai tình trạng: hoặc là độc đoán, chuyên quyền; hoặc là sợ trách nhiệm, chờ đợi, không dám quyết đoán.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể khảo sát dự án cải tạo, nâng cấp đường cất - hạ cánh, đường lăn sân bay Tân Sơn Nhất_Ảnh: TTXVN

Những thách thức đối với người đứng đầu

Ngộ nhận về chức

Thực tế, ngộ nhận của một số người về vai trò lãnh đạo là: Chức vụ hay chức danh tạo ra vai trò lãnh đạo. Không ít “người đứng đầu” ngộ nhận về chức vị của mình, cho rằng không thể lãnh đạo, nếu không đứng đầu; khi là chỉ huy, cấp dưới phải tuân thủ. Và cũng chính sự ngộ nhận này đã khiến nhiều người bị “giam cầm” trong sự nhận thức về chức vị. Vị trí đứng đầu, về cơ học, đương nhiên được hiểu là người lãnh đạo, nhưng thước đo thực sự của vai trò lãnh đạo chính là tầm ảnh hưởng. Thay vì cố gắng xây dựng mối quan hệ với mọi người và gây ảnh hưởng một cách tự nhiên, họ chờ cấp trên trao quyền hành và cấp chức danh. Và, nếu người đó chỉ sử dụng chức vị để lãnh đạo mọi người và không làm gì thêm để tăng tầm ảnh hưởng của mình, thì mọi người đi theo người đứng đầu đó chỉ vì họ phải theo mà thôi. Chức vị gắn với quyền hành theo kiểu được trao như vậy chỉ làm cho cấp dưới, tổ chức và mọi người “phải theo họ”, và vì vậy, ảnh hưởng của người đứng đầu đó sẽ không vượt quá giới hạn trong công việc.

Có rất nhiều yếu tố tác động đến khả năng lãnh đạo. Trước hết, đó là cấp độ chức vị. Người đứng đầu chỉ có ảnh hưởng khi có chức vị, nhưng điều quan trọng là họ phải tạo ra quyền lãnh đạo đối với tập thể, đơn vị, cơ quan, tức lãnh đạo bằng cách gây ảnh hưởng, bằng uy tín, chứ không phải chỉ bằng chức vị hay quyền lực. Chức vị phải gắn với năng lực lãnh đạo hiệu quả phát triển của đơn vị, tổ chức - là thước đo đánh giá vai trò, quyền lực của người đứng đầu. Cấp độ thứ hai là sự chấp thuận của mọi người, tức là người đứng đầu phải xây dựng được các mối quan hệ trong tập thể, phải vượt được ra ngoài chức vị: mọi người theo mình vì họ muốn, tự nguyện, làm việc vui vẻ; cấp độ thứ ba là cấp độ định hướng kết quả… Khi là người đứng đầu, họ quen với việc quyền hạn tương xứng với trách nhiệm. Họ đề ra tầm nhìn, phương hướng và cách tổ chức thực hiện công việc, mục tiêu đề ra.

Người đứng đầu là người có trách nhiệm giáo dục tư tưởng, định hướng hoạt động cho cán bộ, công chức, nhân viên cấp dưới nhưng không được đứng ngoài sự giáo dục đó, phải biết lắng nghe và tìm cách để biết lắng nghe những ý kiến đóng góp, nhắc nhở của tổ chức đảng, của những người xung quanh, của cấp dưới và quần chúng để hoàn thiện mình; kịp thời điều chỉnh hành vi hoạt động và ứng xử đối với việc lãnh đạo các nhiệm vụ với thẩm quyền và chức trách của mình.

Quyết định hướng đi, sự phát triển của tổ chức, cơ quan, đơn vị

Người đứng đầu phải đề ra và kiểm soát được định hướng và thời gian phát triển, hướng đi của đơn vị mình. Là nhà lãnh đạo, người đứng đầu chắc chắn phải mong muốn thúc đẩy đơn vị, cơ quan tiến lên phía trước và tiến càng nhanh càng tốt. Nhưng nếu những định hướng, các ý tưởng vượt lên quá xa so với khả năng, tiềm lực thực tế của đơn vị tới mức mọi người không theo kịp, thì định hướng, kế hoạch và chương trình hành động mà người lãnh đạo đề ra sẽ không thành công. Người lãnh đạo luôn muốn mọi việc được hoàn thành, nên họ luôn muốn có mặt ở nơi diễn ra hành động. Nhưng mọi hành động thường không phải lúc nào cũng đạt được như ý muốn. Muốn đạt được kết quả, cùng với việc đề ra được hướng đi, sự phát triển của tổ chức, đơn vị, người lãnh đạo cần chú ý tới việc phát triển mối quan hệ bền vững với những nhân vật chủ chốt (ban lãnh đạo) của cơ quan, đơn vị. Bởi, bí quyết để thỏa mãn không phải là giao tiếp khéo léo, mà là phát triển mối quan hệ bền vững với mọi người. Nếu mục tiêu giúp đỡ và tạo dựng mối quan hệ tốt với mọi người, sẽ tạo nên một sự tin tưởng, đồng thuận để cùng nhau thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, định hướng đề ra. Và tiêu chí quan trọng nhất của người lãnh đạo là luôn đề cao tập thể hơn thành công cá nhân, lên trên tham vọng cá nhân.

Vượt qua thách thức tầm nhìn

Người lãnh đạo luôn muốn nhìn thấy tầm nhìn (định hướng, ý tưởng đề ra) của mình được thực hiện và đạt thành tựu. Khi lãnh đạo đề ra tầm nhìn, họ luôn muốn làm việc và luôn cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của ban lãnh đạo, đốc thúc mọi người cùng làm việc để thực hiện tầm nhìn của họ.

Thách thức tầm nhìn đối với người lãnh đạo là ở chỗ, họ phải đối mặt với sự tấn công, chỉ trích và phá hoại tầm nhìn. Bởi vì, không phải ai cũng tin ngay vào chiến lược, ngay cả khi nó rất thuyết phục khi được người lãnh đạo truyền đạt rất xuất sắc. Điều đó là tất nhiên, vì rằng tâm lý chung của hầu hết mọi người không thích thay đổi, có thể do họ không hiểu, không tin tưởng, thậm chí khi người lãnh đạo chắc chắn mọi thành viên đều được nghe thấy tầm nhìn cũng không có nghĩa là họ hiểu biết rõ về nó. Phản ứng tích cực nhất đối với tầm nhìn của lãnh đạo là không ngừng bảo vệ mà còn thật sự gia tăng giá trị cho nó. Khi đó, ý tưởng, các định hướng và kế hoạch thực hiện của người lãnh đạo được mọi người và tổ chức đón nhận, thực hiện và người lãnh đạo trở thành một người mà mọi người muốn đi theo.

Vượt qua thách thức ảnh hưởng

Người lãnh đạo trước hết phải tin tưởng bản thân và công việc lãnh đạo của chính mình. Họ phải tự tin rằng, nếu mọi người đi theo họ, cả tổ chức sẽ có lợi và hoàn thành mục tiêu đề ra. Sẽ là ảo tưởng khi tin rằng mọi người sẽ tự giác đi theo mình chỉ vì mình là một lãnh đạo có chức vị. Người lãnh đạo đứng đầu đều hiểu rằng, không thể dựa vào chức vị để lãnh đạo mọi người.

Giải pháp cho thách thức ảnh hưởng là trở thành người lãnh đạo mà những người khác muốn đi theo. Mẫu người lãnh đạo đó phải là người có niềm tin và quyết đoán, cá tính mạnh mẽ - hay còn gọi là tính cách của người lãnh đạo. Mọi người đi theo vì họ kính trọng một nhà lãnh đạo có năng lực.

Mối quan hệ giữa người đứng đầu và tập thể ban lãnh đạo  

Mỗi tổ chức có môi trường riêng, đặc trưng riêng của mình. Môi trường chính là điểm cốt lõi trong vai trò lãnh đạo của người lãnh đạo và tổ chức. Phản ứng tích cực nhất đối với tầm nhìn của người lãnh đạo là không những bảo vệ mà còn thật sự gia tăng giá trị của nó thông qua ban lãnh đạo của đơn vị, cơ quan.

Cá nhân phụ trách trên cơ sở tập thể lãnh đạo nghĩa là phải quyết tâm tổ chức thực hiện đúng việc tập thể đã bàn, đã quyết. Người đứng đầu phải có trách nhiệm lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức và chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành viên trong tổ chức. Lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoạt động và phát triển đúng hướng mục tiêu chính trị đã đề ra; đồng thời tổ chức, hướng dẫn, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá, động viên, đoàn kết, tạo sự cộng đồng trách nhiệm, tạo sự đồng thuận trong toàn đơn vị, địa phương cùng quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương mình. Vì vậy, lãnh đạo phải tập thể, người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương là một thành viên của tập thể lãnh đạo.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký kiểm tra tại Khu công nghiệp Đông Mai và dự lễ đón lô sản phẩm đầu tiên của Tập đoàn Foxconn_Nguồn: Baoquangninh.com.vn

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước ta là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nhưng trong thực tế, không ít tổ chức đảng, các cấp chính quyền, đơn vị hành chính nhà nước đã không duy trì nghiêm túc chế độ lãnh đạo tập thể. Một số người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương đã phớt lờ, thậm chí vô hiệu hoá sự lãnh đạo của tập thể, cấp ủy; gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, hách dịch, dẫn tới nhiều hậu quả. Bản thân họ không được tập thể kiểm tra, kiểm soát, giám sát, uốn nắn, giúp đỡ kịp thời nên dần biến chất, thoái hoá cả về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, dẫn đến mất nhân cách, tư cách của người cộng sản chân chính.

Do vậy, yêu cầu đặt ra là, phải có những chế định đối với người đứng đầu là để họ chịu trách nhiệm trước tổ chức, trước Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trước nhân dân về thực thi quyền lực, trách nhiệm với công việc của họ. Họ được giao cho một số thẩm quyền nhất định nhưng quyền hạn đó bao giờ cũng gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân cụ thể, rõ ràng.

Để có người đứng đầu xứng đáng, cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, có quy định rõ ràng, cụ thể và có chế tài đầy đủ, cụ thể, sát hợp, không chỉ bằng sự giáo dục, thuyết phục, động viên, tự phê bình và phê bình, kêu gọi đề cao ý thức tự giác, hướng thiện…,  mà còn phải cưỡng chế, răn đe bằng pháp luật và kỷ luật của Đảng, quy định của tổ chức một cách nghiêm khắc.

Người đứng đầu có trách nhiệm dẫn dắt tập thể, trước hết là người biết phát huy trí tuệ và năng lực của tập thể để có thể sáng suốt, đúng đắn khi đưa ra quyết sách và có sức mạnh to lớn từ sự đồng thuận, đồng tâm trong quá trình tổ chức thực hiện. Chỉ có thực hành thực sự dân chủ thì người đứng đầu mới có thể phát huy được sức mạnh to lớn của tập thể. Vì vậy, họ không những chỉ giỏi  truyền đạt, thuyết phục, vận động mà còn biết chân thành lắng nghe, có lòng bao dung để tôn trọng những ý kiến khác nhau, bao gồm cả phát biểu, kiến nghị trái với ý kiến mình để phát huy trí tuệ tập thể vì lợi ích chung. Trong công việc, lúc thuận lợi thì biết động viên mọi người chớp thời cơ tiến lên, khi khó khăn vẫn vững vàng mục tiêu lý tưởng, có hiểu biết rộng và tầm nhìn xa để nhận ra thời cơ trong thách thức, đoàn kết mọi người, dẫn dắt tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương vượt qua khó khăn, thử thách, tiến bước theo mục tiêu, định hướng đã xác định.

Uy tín người lãnh đạo, quản lý là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan. Do đó, việc đề ra giải pháp củng cố, nâng cao uy tín người lãnh đạo, quản lý phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa uy tín cá nhân người lãnh đạo, quản lý với uy tín của tập thể, của tổ chức mà người đó đại diện. Uy tín của tập thể, của tổ chức là tiền đề và chuẩn mực xã hội cho uy tín người lãnh đạo, quản lý. Ngược lại, uy tín người lãnh đạo, quản lý sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố, nâng cao uy tín của tập thể, của tổ chức. Nếu uy tín của người lãnh đạo, quản lý giảm sút, tất yếu sẽ làm giảm sút uy tín của tập thể, của tổ chức. Uy tín của người lãnh đạo, người đứng đầu tập thể cơ quan, đơn vị do "cái Tâm, cái Tầm, cái Tài, cái Trí" của họ, nhưng quan trọng, có khi quan trọng hàng đầu là do đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu của họ. Nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cũng đồng nghĩa với nhấn mạnh về sự tiên phong gương mẫu của họ.

Người đứng đầu hết lòng, hết sức vì công việc được giao, gần gũi với nhân dân, sống giản dị, không phô trương lãng phí, không thiên vị, không thành kiến trong công việc thì sẽ làm gương cho cả tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương. Người đứng đầu trong sạch, thì có đủ tư cách kiểm tra, giám sát nghiêm túc cán bộ, nhân viên trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương do mình phụ trách, sẽ công tâm, công bằng trong chỉ đạo, điều hành, quản lý hoạt động, trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ. Ngược lại, nếu ở họ mà vụ lợi, thiên tư, cửa quyền, hách dịch, quan liêu, gia trưởng thì sẽ mất uy tín, niềm tin từ cán bộ, đảng viên và quần chúng, mọi người sẽ không nghe theo, không tâm phục và không thể thành tâm thành ý với công việc.

Chính vì vậy, ở đây, vai trò của tập thể là rất quan trọng. Tập thể cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc xây dựng cơ chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ chế kiểm soát người đứng đầu với cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng", giám sát để bảo đảm có người đứng đầu đủ tiêu chuẩn, điều kiện, khả năng đảm đương, gánh vác trọng trách được giao trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, cần có cơ chế bảo vệ những người dám nói, dám làm, biết làm, dám chịu trách nhiệm, nhất là khi đưa ra những quyết định dù chưa được sự đồng thuận của đa số, nhưng cần thiết vì sự phát triển và lợi ích chung của tập thể cơ quan, đơn vị./.

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/821868/tham-quyen%2C-trach-nhiem-ca-nhan-nguoi-%C4%91ung-%C4%91au-va-che-%C4%91o-tap-trung-dan-chu-cua-ban-lanh-%C4%91ao.aspx