Cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030
Tình hình phát triển văn hóa những năm qua
Trước tiên, có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên kết tinh và lắng đọng được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống yêu nước và lòng dũng cảm, khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến như một đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hòa bình và phồn vinh chung trên toàn cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt Nam, sự “va đập” giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân chủ, hiện đại, nhân văn, khai phóng, khoan dung, rộng mở... Nhận diện được đặc tính, phẩm chất cơ bản này của văn hóa Việt Nam trong truyền thống và hiện đại sẽ có ý nghĩa tích cực, để chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tạo sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dồi dào, đa dạng về loại hình và có giá trị cao trên nhiều phương diện, được công nhận cả ở tầm khu vực và quốc tế là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh quan kỳ vĩ và thơ mộng là những tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa của nước ta từng bước được hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa phù hợp với tình hình mới. Nhiều luật quan trọng liên quan đến văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật khác góp phần hoàn thiện thể chế văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Nhiều chiến lược ngành đã được phê duyệt, làm căn cứ để triển khai các hoạt động văn hóa trong thực tiễn.
Thứ tư, chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả thiết thực, bước đầu huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Xã hội hóa được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Sự đa dạng hóa về các chủ thể văn hóa, sự chuyển đổi từ nguồn lực đơn tuyến của Nhà nước cho văn hóa đến sự nhập cuộc, hiệp lực và phối hợp đa chiều, đa thành phần từ nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội cho các hoạt động văn hóa; thúc đẩy sự đa dạng trong loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong cách của các biểu đạt văn hóa, đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần phong phú hơn.
Thứ năm, sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; có sự thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức biểu đạt mới làm phong phú thể loại, phong cách sáng tác và sản phẩm nghệ thuật với các đề tài, chủ đề được mở rộng bên cạnh những nỗ lực bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh đã nhận được giải thưởng cao trong nước và quốc tế; việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào việc sản xuất sản phẩm văn hóa từng bước được thực hiện, nhiều dự án văn hóa nghệ thuật đã khuyến khích được những sáng tạo mới của các cá nhân nghệ sĩ, thu hút sự quan tâm của giới trẻ và đưa ra những cách nhìn mới về những vấn đề của cuộc sống đương đại.
Thứ sáu, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện là tiền đề góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường tiêu dùng văn hóa với nhu cầu ngày càng lớn. Văn hóa, từ một lĩnh vực bị xem là chủ yếu mang nặng yếu tố tuyên truyền đang dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi nhuận cho xã hội. Đặc biệt, hoạt động du lịch được đẩy mạnh, trong đó tiềm năng văn hóa được khai thác và tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch Việt Nam, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Thứ bảy, hợp tác quốc tế về văn hóa được đẩy mạnh, góp phần tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới, tạo nên “sức mạnh mềm” cho đất nước. Giao lưu văn hóa với nước ngoài ngày càng được mở rộng cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta, góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, quảng bá cho hình ảnh đất nước, con người, văn hóa - nghệ thuật Việt Nam đến với bạn bè thế giới.
Thứ tám, công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh. Hạ tầng mạng lưới viễn thông, In-tơ-nét tiếp tục được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Hoạt động của các cơ quan thông tấn báo chí cũng có nhiều đổi mới, tích cực hội nhập, học hỏi kinh nghiệm truyền thông của thế giới, có những bước phát triển vượt bậc, thông tin đa chiều, nội dung phong phú, góp phần nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ, giúp người dân tiếp cận nhanh với những tri thức mới của nhân loại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống.
Thứ chín, nhiều phong trào, cuộc vận động văn hóa được thực hiện và có những thành tựu nhất định, góp phần tạo môi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống được tôn vinh, tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của người dân được phát huy, mở rộng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì văn hóa nước ta thời gian qua còn tồn tại một số hạn chế.
Một là, tư duy quản lý văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của xã hội. Dấu ấn của tư duy bao cấp, “xin cho”, tư duy hành chính - mệnh lệnh, tác nghiệp vẫn còn nặng nề. Hiện nay các cơ quan quản lý vẫn còn ôm đồm nhiều công việc “làm văn hóa” hoặc bị sa đà vào các hoạt động văn hóa cụ thể, các công việc sự vụ, phong trào mà chưa thực sự phát huy được đầy đủ trách nhiệm, vai trò của xã hội, của cộng đồng, doanh nghiệp và các hiệp hội nghề nghiệp. Cơ chế quản lý vẫn chủ yếu mang tính tập quyền; tính chất phân quyền, phi tập trung hóa chưa cao. Các chủ trương, đường lối, kế hoạch phát triển văn hóa phần lớn được xác định và xây dựng từ cấp vĩ mô tỏa xuống các cấp vi mô, không được đề xuất và xây dựng từ dưới lên, từ thực tiễn cơ sở. Pháp luật chưa trở thành công cụ tối thượng để điều tiết, kiểm soát, điều chỉnh đời sống văn hóa. Nhận thức về văn hóa của các ngành, các cấp có lúc còn cứng nhắc, áp đặt, giáo điều. Trên thực tế, vị thế của văn hóa còn thấp, chưa thực sự được đặt ngang hàng với các lĩnh vực khác.
Hai là, Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi tiếp diễn, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, điều kiện khoa học, kỹ thuật của đất nước, nguồn nhân lực... còn nhiều hạn chế. Kinh tế phát triển chưa bền vững, có những ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Thể chế văn hóa còn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ. Việc ban hành luật vẫn còn những yếu kém. Một số văn bản quản lý vừa được ban hành đã có những bất cập, đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung. Việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa còn yếu nên nhiều quy phạm pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống. Việc thực thi nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa còn lúng túng.
Ba là, nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa còn yếu và thiếu các kỹ năng chuyên môn và quản lý, đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo, các kỹ năng quản trị kinh doanh. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý về văn hóa ở các cấp không theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, và phức tạp của hoạt động văn hóa, dẫn tới lúng túng trong hoạch định chính sách, trong hướng dẫn tổ chức thực hiện, trong xử lý các vụ, việc vi phạm pháp luật và các chính sách về văn hóa.
Bốn là, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều. Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa nhìn chung còn kém phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng còn thấp. Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa trọng điểm còn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm vùng, miền, với nhu cầu và nguyện vọng của người dân; nội dung hoạt động còn nghèo nàn, chưa thiết thực.
Năm là, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao; còn thiếu các thương hiệu văn hóa ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, thiếu những sản phẩm văn hóa có chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức. Tình trạng nhập khẩu, nhập siêu sản phẩm văn hóa nước ngoài vào Việt Nam vượt trội so với xuất khẩu văn hóa, việc tiếp thu sản phẩm văn hóa nước ngoài còn thiếu chọn lọc. Các sản phẩm văn hóa Việt Nam vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng, năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế còn thấp.
Sáu là, bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc thiểu số đã và đang mất dần những nét văn hóa đặc sắc trong tiến trình phát triển, hội nhập, đời sống văn hóa nghệ thuật nghèo nàn. Nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được chú trọng kiểm kê và lập hồ sơ bảo vệ. Nhiều loại hình văn hóa - nghệ thuật chưa được quan tâm phát triển, trong đó có nhiều ngành nghệ thuật đỉnh cao và nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật công cộng, nghệ thuật mới.
Bảy là, môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Văn hóa ứng xử nơi công cộng, ở công sở, trong gia đình, nhà trường có nhiều bất cập. Sự suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nạn tham nhũng, hối lộ, làm ăn phi pháp, lối sống buông thả, sống gấp, thói cơ hội trong chính trị, gian lận trong học hành, bằng cấp,... diễn ra ngày càng phổ biến. Đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh, như y tế, giáo dục, bảo vệ luật pháp, báo chí... Văn hóa gia đình chưa được chăm lo, củng cố. Văn hóa học đường có những biểu hiện đáng báo động. Các hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa, sự xuống cấp về đạo đức, suy thoái về lối sống, sự băng hoại các giá trị văn hóa đang có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
Tám là, hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác. Khoảng cách của nhiều vấn đề lý luận với cuộc sống hiện thực không những chưa được thu hẹp mà có xu hướng mở rộng thêm. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lý luận văn học, nghệ thuật còn ít và chất lượng chưa cao; chưa giải đáp được nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra. Hiện nay đang tồn tại hai thực tế trái ngược nhau: Một mặt, lý luận văn hóa bị lạc hậu, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách do thực tiễn đặt ra mà công tác lý luận chưa trả lời được, hoặc trả lời chưa thuyết phục; mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều hiện tượng văn hóa diễn ra một cách tự phát, khiến cho chỉ đạo thực tiễn bị lúng túng, thụ động đối phó, không có đối sách rõ ràng, kịp thời và hiệu quả. Hoạt động phê bình văn nghệ chưa góp phần định hướng kịp thời, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác, nhiều khi còn dễ dãi, né tránh, cảm tính trong phê bình và ngược lại, cũng xuất hiện kiểu phê bình áp đặt, triệt tiêu bản chất khoa học của phê bình văn nghệ; chưa phân tích phê phán đầy đủ những khuynh hướng sai trái, lệch lạc.
Cơ hội và thách thức đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam những năm sắp tới
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có được cơ hội quảng bá rộng rãi trên thế giới. Văn hóa Việt Nam phát triển trong bối cảnh công nghệ thông tin có những bước phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng mở ra khả năng giao lưu, hợp tác và phát triển toàn diện về văn hóa, nâng cao cơ hội quảng bá văn hóa Việt Nam ra toàn thế giới. Khoa học - công nghệ, truyền thông đại chúng phát triển mang đến cho người dân khả năng sáng tạo và thụ hưởng các sản phẩm văn hóa mới nhanh chóng, hiệu quả và có tính tương tác cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số tạo ra những thuận lợi cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa trên môi trường số. Công nghệ số, in-tơ-nét phát triển kéo theo khả năng tiếp cận các nội dung văn hóa trở nên dễ dàng và không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia, điều này cũng đòi hỏi sự khác biệt, độc đáo trong nội dung, ý tưởng của các sản phẩm văn hóa như là một ưu thế cạnh tranh quan trọng. Các nước phát triển trên thế giới đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, công nghệ số hóa và sự số hóa các nội dung văn hóa(1). Những thay đổi này đã đem lại những cơ hội lớn về khả năng giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân phối, quảng bá sản phẩm mới, đòi hỏi những hành động nhạy bén và sự thích ứng liên tục với sự thay đổi của môi trường. Sự chuyển đổi kỹ thuật số và tinh thần kinh doanh đưa ra những cơ hội, khả năng và thách thức mới cho ngành văn hóa về phương thức hoạt động.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang tạo ra sự tích cực xã hội và tích cực văn hóa cho người dân, là cơ hội thúc đẩy tinh thần tự quản, năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tổ chức các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Người dân ngày càng được khuyến khích tham gia vào các hoạt động xã hội và hoạt động văn hóa với tư cách như những nhân tố chủ động, từ hoạch định đến đánh giá các vấn đề xã hội và văn hóa, thậm chí là người đồng kiến tạo xã hội và văn hóa cùng với bộ máy nhà nước. Yếu tố nội sinh của sự phát triển xã hội và văn hóa được tăng lên cao, phần nào đó thể hiện vai trò tăng lên của người dân so với Nhà nước trong nhiều vấn đề xã hội và văn hóa.
Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, toàn diện của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, văn hóa Việt Nam có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức, các nguồn lực và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Đặc biệt, công nghiệp văn hóa đang được định hướng là một trong những ngành trụ cột của kinh tế. Kinh tế đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện đã hình thành nên một thị trường tiêu dùng/hưởng thụ văn hóa với nhu cầu ngày càng lớn, là cơ sở quan trọng thúc đẩy văn hóa phát triển.
Bên cạnh những cơ hội, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức, đó là:
Thách thức trong việc hoàn thiện thể chế văn hóa. Để có thể hỗ trợ sự đa dạng và năng động của văn hóa (mà không can thiệp quá đà và giới hạn sức sáng tạo), chúng ta cần hoàn thiện các chính sách thuế và quy định pháp luật về kinh doanh nghệ thuật và thị trường, như quyền sở hữu trí tuệ, hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy sự tham gia vào phát triển văn hóa của các đối tác và nguồn lực khác nhau. Thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn hóa hay công nghiệp sáng tạo như một giải pháp để phát triển văn hóa. Xây dựng các cơ chế thúc đẩy phát huy nguồn lực, nhằm tạo nên sự hiệp lực, hợp tác chặt chẽ trong văn hóa, thúc đẩy sự điều phối, kết hợp giữa Nhà nước, các nhà tài trợ, thành phần tư nhân để hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, tăng trưởng, cạnh tranh và cải tổ trong lĩnh vực văn hóa.
Thách thức trong việc chuyển đổi mô hình từ quản lý tập trung sang mô hình phân cấp quản lý văn hóa phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó, chức năng của Chính phủ đã chuyển theo hướng làm văn hóa sang quản lý văn hóa, từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp... Thách thức trong việc tiếp tục đổi mới tư duy lãnh đạo văn hóa của Đảng theo hướng cởi mở, phát huy tính sáng tạo, chủ động của các chủ thể văn hóa. Xây dựng các chủ trương, đường lối, nghị quyết bám sát thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu phát triển bền vững; có sự phân quyền rõ ràng giữa Đảng và chính quyền trong triển khai thực hiện. Gia tăng việc kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá trong quá trình thực hiện. Đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa trên tư tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ thống hành chính công hiện đại; từng bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo nguyên tắc các cơ quan nhà nước tập trung vào phát triển hệ thống thể chế, đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, tổ chức một số hoạt động và sự kiện văn hóa - nghệ thuật quốc gia, các việc còn lại giao cho cộng đồng, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện.
Thách thức về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực văn hóa trong bối cảnh nguồn lực dành cho văn hóa, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư cho văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với vai trò và vị thế của văn hóa khi đặt trong quan điểm phát triển bền vững đất nước. Thách thức về năng lực đổi mới sáng tạo, trong việc cải cách lĩnh vực văn hóa để làm cho văn hóa trở nên phát triển bền vững hơn; trong đó có những thách thức mới về việc nâng cao năng lực quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, về kỹ năng kinh doanh. Một trong những yêu cầu mới của lĩnh vực văn hóa là cần thiết lập mối quan hệ mạnh mẽ hơn với công chúng/người tiêu dùng, doanh nghiệp và cộng đồng, từ đó nâng cao nhận thức về những các giá trị khác nhau của văn hóa.
Thách thức của bối cảnh nền kinh tế số, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông đa phương tiện và kỹ thuật số, thị trường tự do, lĩnh vực văn hóa cần tạo ra sự khác biệt và ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ trong việc tạo ra những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng. Sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi kèm với làn sóng giao thoa, du nhập văn hóa với nhiều yếu tố văn hóa mới, có mặt tích cực nhưng cũng có không ít tiêu cực, trong khi trình độ cán bộ và phương tiện kỹ thuật để quản lý những vấn đề mới mẻ này còn hạn chế, dẫn đến sự lúng túng, bị động trong tổ chức thực hiện.
Thách thức từ toàn cầu hóa văn hóa như là một quá trình lưu thông mà thông qua đó, các nền văn hóa dân tộc đang ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa văn hóa có nguy cơ làm mất bản sắc văn hóa dân tộc nếu chúng ta không nâng cao sức mạnh nội sinh trong văn hóa, tiến hành hiện đại văn hóa nhưng không xa rời các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc. Bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra thách thức cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú cho văn hóa Việt Nam, củng cố nội lực, tạo sức đề kháng trước những cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài, xử lý tốt các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; xử lý tốt các xung đột văn hóa nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa.
Thách thức trong việc xử lý hài hòa nhiều mối quan hệ khác nhau của văn hóa, như mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế, giữa truyền thống và hiện đại...
Một số gợi ý giải pháp phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tới
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và tạo chuyển biến thành hành động của cả xã hội trong xây dựng và phát triển văn hóa. Những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước cần trở thành chương trình hành động của tất cả các bộ, ngành, địa phương một cách thực chất và hiệu quả. Công tác tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông cần chủ động, sáng tạo và hấp dẫn hơn, luôn sát với bối cảnh xã hội mới, trong đó cân nhắc yếu tố tác động của các phương tiện truyền thông mới. Tăng cường hơn nữa nhận thức về vai trò và vị trí của văn hóa trong sự phát triển chung của đất nước. Văn hóa cần phải là một trong những đột phá trong phát triển bền vững đất nước những năm sắp tới.
Thứ hai, tập trung xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Đó là những phẩm chất quan trọng của con người Việt Nam, như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế văn hóa thúc đẩy tự do sáng tạo. Đầu tư nguồn lực hợp lý cho văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực. Không để cán bộ không có chuyên môn, hoặc uy tín thấp trong cấp ủy thì chuyển sang phụ trách văn hóa. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến văn hóa chưa được coi trọng.
Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tạo điều kiện phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh ở gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục lối sống cho con người Việt Nam, để cái tốt sẽ được bảo vệ, nhân lên, cái ác, cái xấu sẽ bị bài trừ, lên án. Đổi mới giáo dục ở mọi cấp học, trong đó nhấn mạnh vào các môn học về đạo đức, nghệ thuật và sáng tạo. Từ những kiến thức, kỹ năng được học trong nhà trường, những giá trị văn hóa sẽ lan tỏa toàn xã hội.
Thứ năm, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ văn hóa của người Việt Nam, vì người Việt Nam, cho người Việt Nam, vừa giúp lan tỏa những giá trị văn hóa Việt Nam - sức mạnh mềm của đất nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ sáu, tăng cường hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập văn hóa quốc tế, quảng bá các thông điệp văn hóa, đưa hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới để làm giàu có hơn cho văn hóa Việt Nam. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Sự phát triển văn hóa Việt Nam những năm sắp tới rất quan trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Tận dụng cơ hội và phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu và vượt qua được thách thức sẽ là cách thức tốt nhất để Việt Nam phát triển văn hóa, thực sự biến văn hóa trở thành động lực và mục tiêu cho sự phát triển đất nước, để văn hóa thực sự “soi đường cho quốc dân đi” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn./.
------------------------------
(1) Số hóa đang chuyển đổi lớn chuỗi mắt xích giá trị sáng tạo, sản xuất và phân phối. Kết quả là những mô hình kinh doanh mới phát triển, xuất hiện các chiến lược bán lẻ và ma-két-tinh mới, ví dụ: môi trường mua và bán lẻ số hóa hoàn toàn mới cho nội dung văn hóa được tạo ra bởi các tổ chức như amazon.com, iTunes, sự truyền bá văn hóa trên các diễn đàn truyền thông xã hội (như Facebook, Twitter...) đi cùng với sự phổ biến của các thiết bị công nghệ cầm tay (điện thoại, máy tính bảng (tablet), máy đọc), sự hòa nhập của người sản xuất và người tiêu dùng sản phẩm văn hóa trong môi trường số hóa mang tính tương tác, trong đó người tiêu dùng sản phẩm văn hóa thậm chí cũng đóng góp đến thiết kế và tái thiết kế của sản phẩm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.