Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2021

Lời tựa cuốn sách "Hồ Chí Minh" biểu tượng của hòa bình, tình hữu nghị giữa Việt Nam và thế giới

Đoàn kết vững tin đưa đất nước bước vào giai đoạn mới, TBT Nguyễn Phú Trọng, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2021.

Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05

Những điểm mới nổi bật trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thể hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Tổng kết công tác của Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 - 2021

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2021

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và sự vận dụng để giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

 

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và sự vận dụng để giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này.

1. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo

Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình yêu” để xoá bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.

Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -  Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(2).

Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”(3). Lột tả bản chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” (4).

Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.

Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”(5). Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”(6).

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu không có những “bông hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ còn lại “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.

Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật lịch sử

Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản thân tôn giáo không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến hành trực diện mà cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng, nó vận động xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt đầu vận động xung quanh bản thân mình”­­­­(8). Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con người ta tự nhận thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về với cuộc sống hiện thực.

Phê phán các nhà duy vật vô thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được giải quyết khi bản thân hiện thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo. Cũng trong “Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã nêu rõ nguyên tắc này: “Xoá bỏ tôn giáo, coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Đòi hỏi nhân dân từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình nghĩa là đòi hỏi nhân dân từ bỏ một tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cái biển khổ ấy, cái biển khổ mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh”(9). Do đó, theo ông, “nhiệm vụ của lịch sử, sau khi thế giới bên kia của chân lý đã mất đi, là xác lập chân lý của thế giới bên này… Như vậy, phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị”(10).

Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần phải tạo lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, thất học…, một thế giới hiện thực không còn cần đến “sự đền bù hư ảo” của tôn giáo mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối không được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”(11).

Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết chế xã hội, nó biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do đó, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định thái độ, cách ứng xử phù hợp.

3. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, theo chúng tôi, trước hết cần phải nhận thức rõ một số vấn đề sau đây:(11)

- Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những điều kiện tồn tại của tôn giáo vẫn còn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là một tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới chưa cao; trình độ nhận thức còn hạn chế nên chưa cho phép giải thích đầy đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn; thời kỳ quá độ với những quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong xã hội… Thêm vào đó, chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con người cảm thấy không yên tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.

- Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.

- Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể dùng mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xoá bỏ dần phương thức sản xuất tiểu nông lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hoá để người dân tự nhận thức được vai trò thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ không phải ai khác, tự quyết định theo hay không theo một tôn giáo nào đó.

Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.

Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới… Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới… Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hoá trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004. Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán một số quan điểm và chính sách sau đây:

- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương  khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khảng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng”(12). Quan điểm của Đảng nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.

- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật. (12)

Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hoà bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.

 *****************

(*) Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.

(**) Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.

(1) Dẫn theo: V.I.Lênin. Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.71.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.815.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.815.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437-438.

(6) V.I.Lênin. Toàn tập, Sđd., t.12, tr.169-170.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.437-570.

(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.15.

(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Sđd., t.1, tr.570.

(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, Sđd., t.1, tr.15.

(11) Dẫn theo: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.

(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.78

Nguồn: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-ton-giao-va-su-van-dung-de-giai-quyet-van-de-ton-giao-trong-thoi-ky-3126

Thứ Ba, 20 tháng 7, 2021

TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

 TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

Lê Văn Lợi

Để tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc nghiên cứu, tiếp thu những giá trị tiến bộ trong các lý luận đương đại về tôn giáo, những giá trị phổ quát của nhân loại đạt được trong pháp luật quốc tế về quyền con người, điều cốt yếu nhất là phải tiếp tục nghiên cứu để quán triệt sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, quan điểm của Lênin nói riêng về tôn giáo.

 

Cũng như C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin nghiên cứu tôn giáo không phải vì mục đích tự thân, không nhằm xây dựng một hệ thống lý luận “thuần túy” về tôn giáo mà do những đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn của phong trào cách mạng. Bối cảnh nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX rất đặc biệt: trong khi CNTB đang chuyển sang giai đoạn phát triển đế quốc chủ nghĩa thì nước Nga lúc đó mới chỉ là nước tư bản có trình độ phát triển trung bình, song chế độ thống trị hết sức thối nát; giai cấp tư sản cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột nhân dân thậm tệ và sử dụng đạo Chính Thống để kìm kẹp, nô dịch tinh thần quần chúng nhân dân. Run sợ trước phong trào cách mạng đang ngày một dâng cao, các thế lực phản động tìm cách lôi kéo, kích động các hoạt động tôn giáo nhằm đánh lạc hướng quần chúng, khiến họ xao nhãng với cuộc đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ. Lênin đã chỉ rõ âm mưu của các thế lực phản động: “Khắp nơi bọn tư bản phản động đã chú trọng, và ở nước ta hiện nay chúng cũng bắt đầu chú trọng khêu lên những sự hằn thù tôn giáo, để làm cho quần chúng chú ý về phía đó, khiến cho họ không để ý đến vấn đề chính trị và kinh tế thật sự quan trọng và chủ yếu”(1). Bên cạnh âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực phản động, sự hoang mang, dao động của một bộ phận người tham gia sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 đã làm xuất hiện trào lưu “tìm thần”, “tạo thần”, muốn kết hợp giữa CNXH khoa học với niềm tin tôn giáo, coi CNXH là một loại tôn giáo. Các trào lưu “tìm thần”, “tạo thần” gây tác hại lớn cho phong trào cách mạng, làm cho quần chúng mất phương hướng. Lênin chỉ rõ các trào lưu này là một dạng biện hộ cho thế lực phản động, là “độc tố ngọt ngào nhất và được che đậy khéo léo nhất trong những viên kẹo bọc bằng đủ loại giấy màu sặc sỡ”(2), khiến quần chúng nhân dân bị mê muội và cam chịu ách áp bức, bóc lột. Ngay trong Đảng Dân chủ - Xã hội Nga cũng đã xuất hiện các quan niệm “hữu khuynh”, “tả khuynh” và cơ hội, muốn thỏa hiệp với tôn giáo. Trong bối cảnh đó, Lênin đã tích cực truyền bá và đấu tranh nhằm khẳng định tính khoa học của các quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen về tôn giáo. Người đã viết nhiều bài về tôn giáo như: Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo; Về thái độ của đảng công nhân đối với tôn giáo; Thái độ của giai cấp và của các đảng phái đối với tôn giáo, v.v.. trong đó Người đã luận giải, làm sâu sắc thêm nhiều khía cạnh liên quan đến vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo.

Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen về bản chất, nguồn gốc tôn giáo, Lênin đã phân tích, làm rõ hơn nguồn gốc kinh tế - xã hội và nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Theo Người, “Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến tôn giáo là cùng khổ và dốt nát”(3); cụ thể hơn, “sự áp bức đối với quần chúng lao động về mặt xã hội, tình trạng có vẻ hoàn toàn bất lực của họ trước những thế lực mù quáng của chủ nghĩa tư bản đang hàng ngày hàng giờ gây ra cho những người lao động bình thường những nỗi khổ cực kỳ ghê gớm, những sự đau thương thật là khủng khiếp, nhiều gấp nghìn lần so với những biến cố phi thường như chiến tranh, động đất, v.v.. đó là nguồn gốc sâu xa nhất hiện nay của tôn giáo”(4).

Phản bác lại quan niệm của những người theo thuyết “tạo thần” rằng “thần” là phức hợp ý niệm làm thức tỉnh và tổ chức những tình cảm xã hội, Người chỉ rõ, “Thần (về mặt lịch sử và sinh hoạt) thì trước hết là một phức hợp những ý niệm được sản sinh ra bởi tình trạng con người chịu đè nén một cách ngoan ngoãn, bởi giới tự nhiên bên ngoài và ách áp bức giai cấp, tức là một phức hợp những ý niệm ghi nhận sự đè nén đó và xoa dịu cuộc đấu tranh giai cấp”(5).

Về nguồn gốc nhận thức của tôn giáo, Lênin đã chỉ rõ khả năng xuất hiện của tôn giáo nằm ngay trong đặc điểm nhận thức của con người. Người viết: “Sự phân đôi của nhận thức của con người và tính khả năng của chủ nghĩa duy tâm (của tôn giáo) đã có trong cái trừu tượng đầu tiên, tối sơ “cái nhà” nói chung và những cái nhà cá biệt”(6). Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen đã phân tích làm rõ ý thức tôn giáo là sự phản ánh vào đấu óc con người những  “lực lượng bên ngoài” thì Lênin lại luận giải, làm rõ hơn “cơ chế” hình thành tôn giáo ngay trong phép biện chứng của quá trình nhận thức.

Lênin đã vạch rõ tác hại của tôn giáo khi bị các thế lực phản động lợi dụng làm công cụ áp bức tinh thần quần chúng và củng cố địa vị thống trị của chúng. Người khẳng định “Phơ bách đã trả lời hết sức đúng những kẻ bênh vực tôn giáo, cho đó là nguồn “an ủi” con người, rằng an ủi con người nô lệ thì có lợi cho chủ nô; còn người bạn chân chính của nô lệ là người dạy cho họ biết phẫn nộ, biết vùng dậy, biết đánh đổ áp bức chứ tuyệt đối không “an ủi” họ”(7).

Phê phán tôn giáo với tư cách công cụ nô dịch tinh thần của giai cấp thống trị, song Lênin kiên trì với quan điểm không tuyên chiến với tôn giáo, thay vào đó, Người đề ra những nguyên tắc, phương pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề tôn giáo, vừa hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Theo Người, để tôn giáo không còn là công cụ thống trị giai cấp, giai cấp vô sản phải “làm cho tôn giáo thực sự trở thành một việc tư nhân đối với nhà nước”(8). Thực hiện tư tưởng đó, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chính quyền đã về tay nhân dân, Người đã ký sắc luật “Về việc tách giáo hội khỏi nhà nước, trường học ra khỏi nhà thờ”. Lênin cho rằng, “phải trừ bỏ triệt để những mối liên hệ giữa một bên là các giai cấp bóc lột, tức bọn địa chủ và bọn tư sản, với một bên là tổ chức tuyên truyền tôn giáo là những mối liên hệ nhằm giữ quần chúng trong vòng ngu muội”(9). Người khẳng định rõ, tôn giáo là việc tư nhân đối với nhà nước, có nghĩa là nhà nước không được bao cấp cho tôn giáo, không được sử dụng tôn giáo như bộ máy nối dài để thống trị, còn đối với chính đảng của giai cấp vô sản, tôn giáo không phải là việc tư nhân. Bởi vậy, Đảng cần tiến hành cuộc đấu tranh khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo thông qua tuyên truyền, giáo dục quần chúng. Người nhắc nhở: “Đấu tranh chống các thành kiến tôn giáo phải cực kỳ thận trọng; trong cuộc đấu tranh này, ai làm  tổn hại đến tình cảm tôn giáo, người đó sẽ gây thiệt hại lớn. Cần phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục. Nếu hành động thô bạo, chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức giận; hành động như vậy sẽ càng gây thêm sự chia rẽ trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà sức mạnh của chúng ta là ở sự đoàn kết”(10). Theo Người, cuộc đấu tranh đó chỉ có kết quả khi chính đảng của giai cấp vô sản đoàn kết, lôi cuốn được quần chúng nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội mới.

Trong vấn đề tự do tín ngưỡng, Lênin không những kiên định với quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen mà còn hiện thực hóa quan điểm đó trong thực tế. Sau Cách mạng Tháng Mười, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo đã được ghi rõ trong Hiến pháp của nước Nga mới. Phát biểu trong Hội nghị Các đại biểu ngoài đảng ngày 26-12-2021, Người nhấn mạnh “theo Hiến pháp của chúng ta, theo đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa chúng ta thì quyền tự do tín ngưỡng về tôn giáo đã được tuyệt đối bảo đảm cho mọi người”(11).

Nhằm đáp ứng những đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn xây dựng Đảng cầm quyền, Lênin đã nêu những luận điểm có tính đột phá trong vấn đề kết nạp đảng viên là chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. Người cho rằng, không nên cứng nhắc khi tuyên bố một linh mục có thể hay không  thể vào Đảng. Người chỉ rõ: “Nếu có linh mục nào đó cùng đi với chúng ta để cùng hoạt động chính trị, tận tâm làm tròn nhiệm vụ của mình trong đảng và không chống lại cương lĩnh của đảng, thì chúng ta có thể kết nạp người ấy vào hàng ngũ của Đảng Dân chủ - Xã hội”(12).

Như vậy, Lênin đã luận giải, làm sâu sắc thêm, cụ thể hóa nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong chế độ mới, qua đó phát triển lý luận mác xít về tôn giáo lên một tầm mức mới. Nhờ vậy, Người đã giải quyết thành công vấn đề tôn giáo trong quá trình cách mạng, tập hợp, đoàn kết được đông đảo quần chúng có tôn giáo xung quanh đảng; hạn chế những tác động tiêu cực của các thành kiến tôn giáo; vô hiệu hóa sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, góp phần vào thắng lợi của cách mạng. Mặc dù do bối cảnh và điều kiện lịch sử, Lênin chưa đi sâu bàn về thiết chế, cơ chế bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, chưa có điều kiện làm rõ những đóng góp của tôn giáo về văn hóa, đạo đức,... nhưng quan điểm của Người về tôn giáo có giá trị khoa học và nhân văn sâu sắc, cùng với lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, trở thành cơ sở lý luận cho Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và thực hiện chính sách đúng đắn đối với tôn giáo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đem lại những thành quả to lớn trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra chính sách tôn giáo với những nội dung như: tôn trọng tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương - giáo, đoàn kết toàn dân; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo, giúp đồng bào “phần xác được ấm no, phần hồn được thong dong”; phát huy tinh thần yêu nước, khích lệ, biểu dương những tấm gương sống “tốt đời, đẹp đạo” trong các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo; kiên quyết đấu tranh chống mê tín dị đoan và sự lợi dụng tôn giáo vào mục đích xấu. Chính sách đúng đắn đó đã có tác dụng to lớn trong đoàn kết dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng.  Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã có sự tổng kết cô đọng: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước”(13).

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, trên cơ sở vận dụng trung thành và sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, Đảng ta đã có sự đổi mới tư duy về tôn giáo, tạo bước đột phá trong chính sách đối với tôn giáo. Đảng khẳng định, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, gìn giữ và phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Đảng cũng khẳng định, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Điều đó thể hiện bước chuyển nhận thức của Đảng từ chỗ xem tôn giáo chỉ là phạm trù chính trị đơn thuần sang nhìn nhận tôn giáo còn là phạm trù dân vận, phạm trù văn hóa. Cùng với những quan điểm thể hiện sự đổi mới tư duy về tôn giáo, Đảng còn đề ra nhiệm vụ cụ thể cho công tác tôn giáo và các giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt công tác tôn giáo như: tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo; tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở; tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo; tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo...

Chính sách tôn giáo của Đảng trong thời kỳ đổi mới đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo được bảo đảm và thực hiện ngày càng đầy đủ; khối đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Tình hình tôn giáo cơ bản ổn định, hoạt động tôn giáo dần đi vào nền nếp, nhìn chung tuân thủ pháp luật. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường, hệ thống pháp luật, thể chế quản lý nhà nước về tôn giáo ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo, đồng thời bảo đảm xử lý, ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá đất nước.

Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, diện mạo các vùng có đông đồng bào có đạo đã có sự thay đổi căn bản theo hướng CNH, HĐH. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo không ngừng tăng lên; cơ sở thờ tự tôn giáo được tạo điều kiện tôn tạo, sửa chữa, xây dựng mới khang trang, lộng lẫy; kinh sách tôn giáo được xuất bản đầy đủ; sinh hoạt tôn giáo của đồng bào nhộn nhịp; các lễ hội tôn giáo được tiến hành trang trọng, bảo đảm an ninh, trật tự. Đồng bào có đạo phấn khởi, tích cực tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phong trào văn hóa, xã hội, các hoạt động nhân đạo, từ thiện.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tình hình tôn giáo cũng có những diến biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, sự nghiệp đổi mới hiện nay cũng đang đặt ra yêu cầu phải phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khai thác mọi tiềm năng, mọi nguồn lực để phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Bởi vậy, trong lĩnh vực công tác tôn giáo, cần tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo để góp phần hạn chế các trở lực và tạo xung lực mới cho công cuộc đổi mới đất nước.

Để tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc nghiên cứu, tiếp thu những giá trị tiến bộ trong các lý luận đương đại về tôn giáo, những giá trị phổ quát của nhân loại đạt được trong pháp luật quốc tế về quyền con người, điều cốt yếu nhất là phải tiếp tục nghiên cứu để quán triệt sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, quan điểm của Lênin nói riêng về tôn giáo. Trong việc vận dụng quan điểm của Lênin về tôn giáo cần chú ý một số vấn đề sau đây:

Một là, cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc hơn những nguyên tắc mang tính phương pháp luận mà Lênin đã đề ra trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Đương thời, trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về tôn giáo vào thực tiễn nước Nga, Lênin đã bổ sung, hoàn thiện những nguyên tắc mác xít để giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng CNXH: khắc phục dần mặt tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; phân biệt giữa nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng nhân dân và sự lợi dụng tôn giáo vào mục đích xấu; giải quyết tôn giáo phải có quan điểm lịch sử, cụ thể. Do nhiều lý do, một số cán bộ, đảng viên có nhận thức chưa đúng hoặc thực hiện chưa đầy đủ những nguyên tắc này trong thực tế. Do vậy, cần nghiên cứu, làm rõ nội dung cụ thể từng nguyên tắc cũng như mối liên hệ hữu cơ giữa các nguyên tắc nêu trên, từ đó quán triệt sâu rộng trong toàn đội ngũ cán bộ, đảng viên, giúp họ hiểu đúng và thực hiện đầy đủ.

Hai là, cần học tập cách Lênin vận dụng sáng tạo lý luận của C.Mác, Ph.Ănghen về tôn giáo để giải quyết vấn đề này. Tình hình thế giới và điều kiện của Việt Nam hiện nay khác xa so với bối cảnh lịch sử của thế giới và nước Nga thời Lênin, bởi vậy, nếu chỉ “tầm chương”, “trích cú”, áp dụng cứng nhắc từng luận điểm cụ thể của Lênin về tôn giáo mà bỏ qua hoàn cảnh lịch sử, cụ thể tức là đã đi ngược lại quan điểm biện chứng và do đó, dẫn tới sai lầm trong giải quyết vấn đề thực tế. Bởi vậy, vận dụng quan điểm của Người về tôn giáo cần căn cứ vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam, căn cứ vào tình hình tôn giáo cụ thể để đề ra chính sách, giải pháp giải quyết cho phù hợp, bảo đảm góp phần tạo động lực cho công cuộc đổi mới đất nước.

Ba là, đối với những vấn đề cụ thể đang có sự thiếu thống nhất nhận thức hoặc vướng mắc giữa lý luận và thực tiễn công tác tôn giáo, cần nghiên cứu để có sự nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn về quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đó; cần xem xét sự vận dụng đã thật sự đúng đắn, sáng tạo hay còn mang tính máy móc, giáo điều. Chẳng hạn, trước đây, nhiều người cho rằng đảng viên có đạo không được tham gia sinh hoạt tôn giáo, nhất là không được thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Họ cho rằng, quy định như vậy là phù hợp với quan điểm của Lênin. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ quan điểm của Lênin về vấn đề này có thể thấy, Người chỉ không cho phép đảng viên có đạo tuyên truyền tôn giáo trong nội bộ tổ chức đảng mà thôi, còn việc sinh hoạt tôn giáo là việc riêng của đảng viên đó, miễn sao họ tuân thủ cương lĩnh, điều lệ đảng. Hay hiện nay, trước hiện tượng có nhiều “đạo lạ” xuất hiện và trong số đó có không ít hiện tượng phi nhân tính, phản nhân văn, một số người cho rằng cần xem tất cả hiện tượng tôn giáo mới là “tà đạo” và phải ngăn cấm triệt để. Tuy nhiên, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ hiện thực và nó ra đời là đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, vì vậy, không thể đơn giản quy toàn bộ hiện tượng tôn giáo mới là “tà đạo”, càng không thể giải quyết triệt để bằng biện pháp hành chính. Qua đó có thể thấy rằng, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo phải trên cơ sở có sự nhận thức đúng đắn với tư duy đổi mới thì mới mang lại tác dụng thiết thực trong giải quyết vấn đề tôn giáo.

Bốn là, cùng với việc vận dụng quan điểm của Lênin về tôn giáo, cần nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo cho phù hợp với bối cảnh của thời đại và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Muốn vậy, cùng với việc đào sâu nhận thức về các quan điểm của Người về tôn giáo, trên cơ sở giữ vững lập trường và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cần nghiên cứu để tiếp thu có phê phán các thành tựu đương đại trong lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo. Đồng thời, thường xuyên có sự tổng kết thực tiễn, một mặt đánh giá sự vận dụng lý luận về tôn giáo trong thực tiễn, mặt khác đúc kết, bổ sung những quan điểm mới, góc nhìn mới về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

-------------------------------

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015

(1), (8) V.I.Lênin: Toàn tập, t.12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.171, 175.

(2), (5) Sđd, t.48, tr.294, 300-301.

(3), (10) Sđd, t.37, tr.221, 221.

(4), (12) Sđd, t.17, tr.551, 519.

(6) Sđd, t.29, tr.394.

(7), (9) Sđd, t.36, tr.162, 162.

(11) Sđd, t.44, tr.410.

(13) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.45.

Nguồn:http://tcnn.vn/news/detail/32884/Tu_tuong_cua_V_I_Lenin_ve_ton_giao

_trong_thuc_tien_Viet_Nam_hien_nayall.html

Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021

Phát triển công nghệ sinh học phục vụ sản xuất hàng hóa nông nghiệp xuất khẩu và bảo vệ môi trường bền vững ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long

Tháo gỡ “điểm nghẽn” nguồn nhân lực ở đồng bằng sông Cửu Long

Quản lý tài nguyên nước bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long

BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG KHU VỰC NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG: THỰC TRẠNG VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

ẢNH HƯỞNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN ĐỐI VỚI THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2021

Đồng chí Phạm Hùng - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, của quê hương Vĩnh Long

 

TCCS - Cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng sinh ra và lớn lên tại tỉnh Vĩnh Long, có sáu mươi năm tham gia hoạt động cách mạng, phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Từ người học sinh mới mười sáu tuổi đã tham gia cách mạng đến khi trở thành một trong những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, dù ở bất cứ cương vị nào, đồng chí cũng luôn thể hiện rõ tinh thần, khí phách của người chiến sĩ cộng sản, thương yêu đồng bào, đồng chí; suốt cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng bộ miền Nam đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 13-5-1975_Ảnh: TTXVN

Phạm Hùng - người chiến sĩ cộng sản “dạ sắt, gan đồng”

Đồng chí Phạm Hùng tên thật là Phạm Văn Thiện, sinh ngày 11-6-1912, tại ấp Long Thiềng, làng Long Hồ, tổng Bình Long, huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc ấp Long Thuận A, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, một vùng đất giàu truyền thống yêu nước, cách mạng.

Năm 1928, sau khi học xong ở trường tỉnh, đồng chí sang học Trường Trung học Mỹ Tho. Tại đây, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên. Năm 1930, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó làm Bí thư Chi bộ Trường học. Năm 1931, đồng chí được Đảng tin cậy giao trọng trách làm Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho khi vừa tròn 19 tuổi. Lúc này, phong trào cách mạng của nhân dân địa phương chống chính quyền thực dân Pháp đã phát triển rộng khắp. Tháng 6-1931, đồng chí bị địch bắt giam ba năm (1931 - 1933) ở Mỹ Tho và Sài Gòn, sau đó bị kết án tử hình trong “vụ án những người cộng sản” nổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Do phong trào đấu tranh của nhân dân ta và các lực lượng tiến bộ Pháp đòi ân xá tù chính trị, đồng chí được giảm từ án tử hình xuống án chung thân khổ sai và bị đày ra nhà tù Côn Đảo.

Sống trong cảnh tù đày vô cùng tàn bạo ở “địa ngục trần gian” Côn Ðảo, đồng chí Phạm Hùng luôn nêu cao khí tiết của người chiến sĩ cộng sản trước kẻ thù và luôn lạc quan, giữ vững niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. Là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của phong trào đấu tranh ở nhà tù Côn Ðảo, nhiều năm làm Bí thư Ðảo ủy, đồng chí cùng Chi bộ tù nhân cộng sản đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, tổ chức học tập lý luận về chủ nghĩa cộng sản để nâng cao nhận thức của tù nhân và tuyên truyền giác ngộ binh lính, cai tù, giám thị. Ðồng chí đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giành sự sống cho tù nhân, đòi giảm nhẹ khổ sai, cải thiện chế độ nhà tù và nhiều lần dũng cảm xả thân chịu đòn thay cho đồng chí của mình. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nhận xét: “Phạm Hùng đã vượt qua mọi thách đố, hơn thế nữa, là người sẵn sàng sống chết với tinh thần nghĩa hiệp, che chở cho đồng chí, che chở cho người yếu đuối. Chính môi trường này làm bật sáng khí phách của một Phạm Hùng, dám đưa lưng đỡ đòn cho bè bạn một cách dứt khoát đến nỗi bọn cai ngục phải nể sợ”(1).

Trải qua gần 15 năm bị tù đày trong lao tù đế quốc, hết xà lim án chém đến “địa ngục trần gian” Côn Ðảo, biết bao hình phạt tàn khốc của kẻ thù vẫn không thể nào khuất phục được người chiến sĩ cộng sản có “dạ sắt, gan đồng”. Tấm gương đồng chí Phạm Hùng, một chiến sĩ cộng sản hiên ngang, bất khuất, nghĩa hiệp đã trở thành biểu tượng của ý chí và nghị lực phi thường của một thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc và lý tưởng cộng sản.

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được Đảng đón từ Côn Đảo về tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam suốt chín năm liền với các trọng trách: Bí thư Xứ ủy lâm thời Nam Bộ, rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam kiêm Bí thư và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Phân liên khu Đông Nam Bộ, Trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban Liên hiệp đình chiến Nam Bộ.

Từ năm 1956 cho đến khi qua đời (năm 1988), đồng chí là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng với các trọng trách: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, Chính ủy Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Quốc hội nhiều khóa, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng của Quốc hội khóa VIII, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Phạm Hùng luôn nêu cao tinh thần cách mạng cao quý, gian nan không lùi bước, nguy hiểm không sờn lòng, sẵn sàng hy sinh tất cả vì nước, vì dân, giữ vững niềm tin ở thắng lợi cuối cùng. Bất chấp gông cùm và những đòn tra tấn của nhà tù đế quốc, bất chấp hoàn cảnh gian khổ và ác liệt của chiến trường miền Nam, nhất là những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí luôn bền gan chiến đấu, thể hiện lòng dũng cảm và nghị lực phi thường.

Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Phạm Hùng gắn liền với những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi oanh liệt, hào hùng của Đảng và của cả dân tộc ta. Đồng chí là nhà lãnh đạo, nhà tổ chức tài năng, là cán bộ sâu sát với quần chúng, lời nói luôn đi đôi với hành động, có tinh thần trách nhiệm cao, nghiêm túc, mẫu mực, luôn đem hết trí tuệ và sức lực hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào được Đảng và nhân dân giao phó. Ðồng chí luôn đặc biệt chăm lo công tác xây dựng Ðảng, xây dựng hệ thống chính trị; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chân thành, thẳng thắn tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng. Ðồng chí luôn quan tâm và dành nhiều tâm sức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; gần gũi và ân cần chỉ bảo, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội; dân chủ, cởi mở, nghiêm minh và rộng lượng với mọi người.

Học tập nhân cách lớn, tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng của đồng chí Phạm Hùng

Một là, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và vào sự thành công của cách mạng Việt Nam. Đồng chí Phạm Hùng tham gia cách mạng khi còn ở độ tuổi thanh niên, trong giai đoạn đất nước chịu ách thống trị của thực dân và phong kiến, cách mạng Việt Nam mới ở bước “khai lối mở đường”, nhưng với niềm tin và sự quyết tâm của người chiến sĩ cộng sản, đồng chí luôn tin tưởng tuyệt đối vào đường lối cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, cách mạng Việt Nam đã có những bước tiến mới, phát triển vượt bậc trên các lĩnh vực, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; nhưng bên cạnh đó, cũng còn không ít những khó khăn, thách thức đang đặt ra. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, noi theo tấm gương tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng từ đồng chí Phạm Hùng và những thế hệ đi trước, các thế hệ người Việt Nam hôm nay, đặc biệt là thế hệ trẻ, phải nâng cao nhận thức, cảnh giác trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; tuyệt đối trung thành và luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam sẽ tiếp tục giành những thắng lợi vẻ vang.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng tại xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long_Ảnh: TTXVN

Hai là, nêu cao tinh thần bất khuất, không ngại khó khăn, gian khổ, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Tinh thần bất khuất của người chiến sĩ cộng sản Phạm Hùng là tấm gương lớn để các thế hệ ngày nay học tập. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn, gian khổ đến đâu cũng không chùn bước; từ xà lim án chém đến nhà tù Côn Đảo cũng không khuất phục được lòng dũng cảm, tinh thần bất khuất của đồng chí Phạm Hùng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí luôn được Đảng tin cậy, giao phó nhiều công việc nơi “đầu sóng, ngọn gió”. Khi đã có nghị quyết của Đảng, dù công việc có khó khăn đến đâu, đồng chí cũng quyết tâm tìm phương án tối ưu nhất để thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai mươi, ba mươi. Quyết tâm chính là nhiệt tình cách mạng, nhiệt tình đó chứa đựng niềm tin vào thắng lợi. Đây cũng là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta. Dẫu con đường phía trước không bằng phẳng, nhiều chông gai, thử thách, mỗi cán bộ, đảng viên cần noi gương các bậc tiền bối cách mạng, nêu cao tinh thần quyết tâm, ra sức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị được giao.

Ba là, giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đồng chí Phạm Hùng luôn phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao ý thức kỷ luật, kỷ cương. Trong công việc, đồng chí luôn giữ vững nguyên tắc kỷ luật, kỷ cương nhưng cũng rất tình cảm trong đời thường. Ngoài ra, nguyên tắc tự phê bình và phê bình cũng được đồng chí đề cao. Học tập đồng chí Phạm Hùng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật trong sinh hoạt đảng và trong công tác hằng ngày, đúng với phương châm mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”.

Tỉnh Vĩnh Long hôm nay có những bước phát triển vượt bậc (Trong ảnh: Cầu Cần Thơ là cầu dây văng đầu tiên xây dựng qua dòng sông Hậu, có nhịp chính dài nhất Đông Nam Á (550m), nối tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ)_Ảnh: TTXVN

Bốn là, thương yêu đồng chí, đồng đội, quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân. Cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí Phạm Hùng rất giản dị, liêm khiết, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên ngày nay cần tự rèn luyện bản thân mình, nêu cao đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ nhân dân, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Năm là, nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong lần về dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cửu Long lần thứ IV (năm 1986), đồng chí Phạm Hùng chỉ rõ, nhờ sự đoàn kết mà dân tộc ta đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; chúng ta cần phải nêu cao tinh thần đoàn kết, chống lại tư tưởng cục bộ, cá nhân, phải gác bỏ mọi việc riêng để tập hợp sức mạnh trong toàn Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngày nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những thay đổi nhanh chóng, biến động khó lường. Mỗi cán bộ, đảng viên cần giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng và góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng trong thời kỳ mới.

Đồng chí Phạm Hùng là người chiến sĩ cộng sản kiên cường, người con ưu tú của dân tộc, của quê hương Vĩnh Long, người học trò xuất sắc của Bác Hồ kính yêu, suốt đời cống hiến vì Đảng, vì đất nước, vì nhân dân. Đồng chí là tấm gương sáng để mỗi cán bộ, đảng viên học tập, noi theo, không ngừng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.

-------------------

(1) Phạm Hùng - Nhà lãnh đạo trung kiên, mẫu mực (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 91

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/823317/dong-chi-pham-hung---nguoi-chien-si-cong-san-kien-trung%2C-nguoi-con-uu-tu-cua-dan-toc-viet-nam%2C-cua-que-huong-vinh-long.aspx

Phát triển kinh tế tuần hoàn ở các tỉnh, thành phía Nam - Thực trạng và giải pháp

 

TCCS - Ngày 10-11-2020, tại thành phố Cần Thơ, hội thảo với chủ đề “Phát triển kinh tế tuần hoàn ở các tỉnh, thành phía Nam - vấn đề và giải pháp” do Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Thành ủy thành phố Cần Thơ đã được tổ chức.

Chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Thượng tướng, PGS, TS. Nguyễn Văn Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an; PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; TS. Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ.

Dự Hội thảo còn có TS. Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy thành phố Cần Thơ; PGS, TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; các đồng chí lãnh đạo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, đại diện doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phía Nam.

Phát biểu chào mừng Hội thảo, đồng chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Thành phố Cần Thơ cho rằng, những tác động do gia tăng dân số, biến đổi khí hậu toàn cầu, yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao... khiến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, phải đối diện với các thách thức to lớn do tình trạng ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác ngày càng suy kiệt, thiên tai, dịch họa gia tăng, đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống, sức khỏe con người. Để phát triển nhanh, bền vững, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, “không đánh đổi” tăng trưởng kinh tế với ô nhiễm và suy thoái môi trường, thì việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là hướng đi thích hợp. Vì vậy, hội thảo này có ý nghĩa rất quan trọng với thành phố Cần Thơ nói riêng, các tỉnh, thành phía Nam và cả nước nói chung.

Vai trò, lợi ích của mô hình kinh tế tuần hoàn

TS. Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu đề dẫn hội thảo_Ảnh: TTXVN

Báo cáo đề dẫn hội thảo, TS. Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ nhấn mạnh, khi các nền kinh tế ngày càng mở rộng, tài nguyên dần cạn kiệt, mô hình kinh tế tuyến tính không nên duy trì, bởi nó làm môi trường suy thoái do ô nhiễm, chất thải gia tăng… Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2030, nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên toàn cầu sẽ tăng gấp 3 lần so với hiện nay, điều này vượt ngoài khả năng cung ứng của thiên nhiên… Đó là thách thức to lớn và cũng là nguyên nhân vì sao cần phải nhìn nhận lại, thay đổi mô hình, chiến lược phát triển, trong đó điểm mấu chốt là phát triển kinh tế phải bảo đảm không làm phương hại đến môi trường, hướng tới một nền kinh tế xanh, sạch, phát triển bền vững và mô hình kinh tế tuần hoàn đang được xem là hướng đi phù hợp. Bởi, mô hình kinh tế tuần hoàn dựa trên các nguyên tắc chính là thiết kế để tái sử dụng, khả năng sử dụng đa dạng năng lượng từ các nguồn vô tận, tư duy hệ thống, nền tảng sinh học..., do đó sẽ loại bỏ được những tác động tiêu cực đến môi trường sống.

Hiện nay, một số mô hình hoạt động theo các nguyên tắc kinh tế tuần hoàn ở các tỉnh, thành phía Nam đã đạt những kết quả đáng khích lệ bước đầu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đối với Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như xu hướng tăng trưởng chậm lại; kết cấu hạ tầng không đồng bộ và chậm cải thiện; chất lượng phát triển đô thị còn thấp, bị ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng... đang là rào cản lớn cho sự phát triển bền vững của các tỉnh, thành phía Nam. 

Do đó, hội thảo mong muốn các nhà khoa học tập trung làm rõ một số vấn đề trọng tâm, như luận chứng về tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trên thế giới và Việt Nam trong tình hình mới; kế thừa, chọn lọc những mô hình phù hợp để ứng dụng ở Việt Nam nói chung và tại các tỉnh, thành phía Nam nói riêng nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững, thân thiện với môi trường...

Trong phần trao đổi, thảo luận, các đại biểu, các nhà khoa học cho rằng, mô hình kinh tế tuần hoàn đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ, đồng thời nêu lên tính ưu việt của mô hình kinh tế tuần hoàn và tính cấp thiết phải chuyển từ kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Với tham luận “Xây dựng mô hình hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Thượng tướng, PGS, TS. Nguyễn Văn Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an cho rằng, nền kinh tế tuần hoàn là một thiết kế lại mô hình kinh tế mới, nơi các hệ thống công nghiệp được phục hồi và tái tạo; không có gì được tạo ra trong nền kinh tế tuần hoàn trở thành lãng phí. Nền kinh tế tuần hoàn có tiềm năng tạo việc làm và phát triển kinh tế là rất lớn, ước tính cho thấy cơ hội hàng nghìn tỷ USD. Đây là nền kinh tế giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của những thách thức kinh tế - xã hội và môi trường bằng cách đối phó với chúng ở giai đoạn thiết kế. Theo đó, Việt Nam cần sớm chuyển từ mô hình kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn để tái sử dụng vật liệu tốt hơn, tái chế nhiều hơn và nếu việc chuyển đổi này thành công ước tính sẽ giúp mang lại nguồn lợi kinh tế lớn, đồng thời góp phần giúp khôi phục các hệ thống tự nhiên của Việt Nam. 

Thượng tướng, PGS, TS. Nguyễn Văn Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an phát biểu tại Hội thảo_Ảnh: TTXVN

Chia sẻ về những mô hình kinh tế tuần hoàn từ thực tiễn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre Nguyễn Trúc Sơn cho biết, dù Bến Tre chưa có một mô hình kinh tế tuần hoàn trọn vẹn đúng bản chất, nhưng đã manh nha hình thành những mô hình tái sử dụng, tái chế, thu hồi chất thải nhằm mang lại lợi nhuận tài chính cho cơ sở sản xuất và lợi ích cho người tiêu dùng và cho cộng đồng. Rõ nét nhất trong hoạt động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là sản phẩm bánh hoa dừa được làm từ nguyên liệu cơm dừa có phối trộn các nguyên liệu sẵn có thành các hương vị tự nhiên, riêng có của Bến Tre; sau khi tách và lấy hết dầu dừa trong vỏ lụa sẽ thải bỏ ra xác bã dừa trở thành nguyên liệu đầu vào của các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi... Hiện nay, Bến Tre đã nghiên cứu thành công, áp dụng rộng rãi mô hình xử lý rác thải hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp như nhờ áp dụng công nghệ tách chất tan-nin nên đã biến phế thải mụn dừa thành đất sạch, ứng dụng công nghệ sinh học để biến mụn dừa thành phân bón hữu cơ phục vụ canh tác sạch, hữu cơ; biến vỏ ca cao thành thức ăn giàu dinh dưỡng cung cấp cho chăn nuôi...

Các đại biểu cũng giới thiệu nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn khác được vận hành trong những năm qua ở các tỉnh, thành phía Nam và mang lại hiệu quả bước đầu. Tại thành phố Cần Thơ có trang trại côn trùng của Công ty TNHH Vườn sinh thái Kim's Garden Cần Thơ đã thực hiện thành công giải pháp côn trùng và chế phẩm sinh học vào nông nghiệp tuần hoàn khép kín, giảm được 80% chi phí thức ăn công nghiệp, đặc biệt là hạn chế tối đa chất thải từ chăn nuôi ra môi trường. Ở tỉnh Bình Dương, từ năm 2018 đã đưa vào vận hành khu liên hợp xử lý chất thải Bình Dương, ngoài việc thu gom và xử lý rác thải, khu liên hợp xử lý chất thải của tỉnh còn được đầu tư nhiều công nghệ mới để biến rác thải thành nguồn nguyên liệu tạo ra sản phẩm có giá trị. Còn tại tỉnh Tiền Giang, hiện có 26 cơ sở ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi, các cơ sở này áp dụng hệ thống chăn nuôi chuồng kín, có thể quản lý được nhiệt độ, ẩm độ và sức gió trong chuồng nuôi, có hệ thống xử lý chất thải (hầm biogas, HDPE, đệm lót sinh học ...), hạn chế mùi hôi, không gây ô nhiễm môi trường. 

Nhiều khó khăn, thách thức

Quang cảnh Hội thảo _ Ảnh: Đức Thuận

Sau khi chia sẻ những lợi ích do mô hình kinh tế tuần hoàn mang lại đối với các nước trên thế giới, GS, TS. Đoàn Thị Hồng Vân, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và TS. Nguyễn Tấn Vinh, Phó Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II lưu ý, Việt Nam là một quốc gia nhỏ xếp thứ 68 thế giới về diện tích, thứ 15 thế giới về dân số, nhưng chúng ta hiện đứng thứ 4 thế giới về rác thải nhựa, với 1,83 triệu tấn/năm. Tình trạng suy giảm tài nguyên, tiêu thụ năng lượng tăng nhanh, ô nhiễm và suy thoái đất, đặc biệt là biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam chưa có hành lang pháp lý để phát triển kinh tế tuần hoàn, dù đã có nhiều bước chuyển đổi bước đầu hướng đến phát triển nhanh và bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và xây dựng nền kinh tế tuần hoàn. 

Bên cạnh đó, ý kiến của các đại biểu còn nhìn nhận, hiện nay, Việt Nam chưa có bộ tiêu chí để nhận diện, đánh giá, tổng kết và đưa ra phân loại chính xác mức độ phát triển của kinh tế tuần hoàn, đây là thách thức lớn để biết được sự phát triển kinh tế hiện nay đã tiếp cận tới phát triển kinh tế tuần hoàn trong các ngành, lĩnh vực và địa phương ở mức độ nào. Việc phát triển kinh tế tuần hoàn hiện nay ở Việt Nam nói chung và các tỉnh, thành phía Nam nói riêng vẫn mang tính tự phát là chính, trong khi nhận thức về kinh tế tuần hoàn và sự cần thiết chuyển đổi sang phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn còn hạn chế. Kinh tế tuần hoàn đòi hỏi những tiến bộ công nghệ mới, nhưng nước ta là nước đang phát triển, phần lớn công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, đây là thách thức lớn cần phải vượt qua. Vấn đề quan trọng nữa là sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia giỏi để giải quyết tốt từ khâu thiết kế đến khâu cuối cùng tái sử dụng, tái chế chất thải. 

PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản kết luận Hội thảo _ Ảnh: Đức Thuận

Cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp

Để mô hình kinh tế tuần hoàn góp phần vào sự phát triển bền vững đối với các tỉnh thành phía Nam nói riêng và Việt Nam nói chung, các ý kiến và tham luận tại Hội thảo đã đề ra một số giải pháp cần thực hiện đồng bộ trong thời gian tới là: 

Trước hết, về xây dựng cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn, theo đó ở cấp độ quốc gia cần phải có một hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn. Còn tại vùng, địa phương cần chủ động đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng giữa các tỉnh lân cận để có biện pháp hỗ trợ giải quyết các vấn đề chung, tạo nên hiệu ứng lan tỏa tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn cho cả khu vực. Cụ thể, có thể xây dựng cơ chế hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các tỉnh trong khu vực về kinh nghiệm chuyển đổi mô hình kinh tế tuần hoàn.

Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp trong phát triển kinh tế tuần hoàn. Để thực hiện tốt giải pháp này, các tỉnh, thành phía Nam phải đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng cơ chế phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong các hoạt động khoa học - công nghệ, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò là trung tâm ứng dụng và đổi mới công nghệ. Nhằm tận dụng nguồn lực của các doanh nghiệp để hình thành nền kinh tế tri thức của tỉnh, thành phố trong vùng. 

Thứ ba, xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. 

Thứ tư, chú trọng phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nhân, hiệp hội ngành nghề trong việc tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc tiếp thu sáng kiến, công nghệ, kinh nghiệm quốc tế về sản xuất xanh. Khuyến khích doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong việc thúc đẩy nghiên cứu - chuyển giao; hình thành nguồn quỹ để trao giải, tôn vinh các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tiêu biểu trong bảo vệ môi trường.

Kết luận Hội thảo, PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản khẳng định, Hội thảo đã đạt được những kết quả rất đáng trân trọng. Nhìn chung, ý kiến của các đại biểu, nhà khoa học đã khẳng định tầm quan trọng và tính tất yếu của việc vận dụng và triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn đối với Việt Nam nói chung và các tỉnh, thành phía Nam nói riêng.

Các ý kiến tham luận còn nêu lên những bài học kinh nghiệm có giá trị thiết thực trong quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới và khả năng vận dụng vào Việt Nam và các tỉnh, thành phía Nam; đồng thời đề xuất nhiều giải pháp xác đáng, đồng bộ để thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam trong thời gian tới, góp phần quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TS. Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ nhận Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tạp chí lý luận của Đảng” do Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản trao tặng _Ảnh: Đức Thuận

Tại Hội thảo, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản đã trao Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tạp chí lý luận của Đảng” tặng đồng chí TS. Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ vì đã có những đóng góp quan trọng vào việc bổ sung, phát triển lý luận của Đảng trong tình hình mới./.

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thong-tin-ly-luan/-/2018/821016/view_content